Thưa Hồng y
Thưa Anh Em quý mến trong hàng giám mục và tư tế,
1. Tôi hân hoan đón tiếp Anh em, các Giám mục Việt Nam, đã vượt đường dài về Rôma làm tròn nghĩa vụ viếng mộ hai thánh Tông đồ. Qua cử chỉ hành hương bên mộ Phêrô và Phaolô, Anh em muốn củng cố đức tin và sứ vụ của mình, nguyện cầu cho Giáo hội tại các giáo phận của Anh em, và tăng cường mối hiệp thông gắn bó Anh em với người kế vị Phêrô. Tôi mong rằng những cuộc gặp gỡ khác nhau Anh em sẽ thực hiện, giúp Anh em can đảm theo đuổi sứ mạng yêu thương và phục vụ của Chúa Giêsu Đấng Cứu Chuộc và đổi mới Anh em trong trách vụ xây dựng Thân thể Chúa Kitô.
Tôi cám ơn Đức cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa, giám mục Nha Trang và tân Chủ tịch Hội đồng Giám Mục Việt Nam, về những điều ngài vừa nhân danh Anh em nói với tôi, cho phép tôi chia sẻ những dấu chỉ của hy vọng và những ưu tư mục vụ của các giáo phận. Tôi cũng có lời chúc mừng nồng nhiệt các Anh em vừa được thụ phong giám mục. Trong cuộc viếng mộ các thánh Tông đồ lần này, tôi rất sung sướng được gặp toàn thể các vị trong Hội đồng Giám mục. Việc chúng ta tất cả được cùng nhau sống thời điểm hiệp thông mãnh liệt, thiêng liêng và huynh đệ này là một vinh hạnh. Khi trở lại quê hương cao quý của Anh em, xin Anh em loan báo cho các linh mục, tu sĩ nam nữ, các giáo lý viên, các giáo dân, đặc biệt thanh thiếu niên biết : Đức Thánh Cha cầu nguyện cho họ, Đức Thánh Cha mời gọi họ, họ hãy lãnh nhận những thách đố của Tin Mừng, hãy noi gương các thánh, các đấng tử đạo đã bước đi trước họ trên nẻo đường của đức tin và máu các ngài đổ ra đang là một mầm mống của cuộc sống mới cho toàn đất nước.
2. Từ chuyến viếng mộ các thánh Tông đồ của Anh em lần trước, Giáo hội tại Á châu đã được mời gọi cách riêng để đào sâu thông điệp vui mừng của Ơn Cứu chuộc, bằng sự tiếp cận một cách đặc biệt vấn đề căn bản của việc rao giảng minh bạch ơn cứu độ cho đông đảo những người á châu chưa từng nghe nói tới Chúa Cứu Thế. Như mọi Giáo hội địa phương Á châu, cộng đồng công giáo Việt Nam có những suy tư thần học, tu đức và mục vụ riêng, ăn nhịp với những biến cố trọng đại của Giáo hội ; đó là Hội nghị đặc biệt của Thượng Hội đồng Giám mục về Á châu, là kinh nghiệm giàu có của Năm Đại Toàn xá 2000 và mới đây, Hội nghị thường kỳ của Thượng Hội đồng Giám mục mà có những vị trong anh em đã vui mừng tham dự. Tình yêu Chúa Cứu Thế thúc đẩy Giáo hội rao giảng Tin Mừng và thúc giục các giám mục xúc tiến việc rao giảng Tin Mừng, là công việc và trách nhiệm hàng đầu của họ.
3. Giáo hội tại Việt Nam được mời gọi ra khơi : vậy tôi xinä Anh em hãy hết sức quan tâm đến việc phúc âm hóa và truyền giáo trong các chương trình mục vụ. Tôi biết lòng nhiệt thành của Anh em và tôi biết Anh em phải thực hiện giám chức trong những điều kiện khó khăn. Xin hơi thở của Chúa Thánh Thần làm cho những sáng kiến tông đồ của Anh em được phong phú, để mang lại một sinh khí mới cho lời rao giảng của Anh em, cho việc huấn giáo, đào tạo linh mục tu sĩ, cho việc cầu nguyện của giáo dân, cho việc tông đồ gia đình và giới trẻ ! Tại các giáo phận cũng như trong Hội đồng Giám mục, Anh em lưu ý đề ra những chọn lựa mục vụ thích hợp với hoàn cảnh và nhu cầu của Giáo hội địa phương ; Anh em quan tâm đến mảnh đất nhân bản màu mỡ trong đó mình đang sống, một mảnh đất được nhào nặn bởi bao nhiêu dòng văn hóa và nhiều truyền thống tôn giáo để hình thành bộ mặt tinh thần của đất nước. Trong tinh thần đó, cách tổ chức HĐGM anh em vừa đưa ra, đặc biệt với những ủy ban chuyên môn mới, là một dụng cụ phục vụ sự năng động và canh tân trong việc truyền giáo cần phải có nơi các cộng đồng lựa can đảm mà anh em cần thực hiện, dưới sự dìu dắt của Thanh linh, tác nhân chủ yếu của việc phúc âm hóa, nhờ sự giúp đỡ của Người Anh em sẽ đủ sức trả lời một cách hữu hiệu những đòi hỏi của việc rao giảng Tin Mừng.
Những bản Báo cáo năm năm của anh em nhắc nhiều lần rằng cần mở rộng việc dạy giáo lý vỡ lòng cũng như việc học tập thường xuyên của linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân. Những năm dài chinh chiến, tình trạng phát tán của các cộng đoàn kitô hữu và sự chênh lệch về trình độ kiến thức nơi giáo dân khiến cho những dự định và chương trình đào tạo thành khó khăn. Vậy tôi khuyến khích anh em hãy cổ vũ và nâng đỡ tất cả mọi sáng kiến có thể giúp các vị chủ chăn và các tín hữu, nhờ được đào luyện thích hợp, có được và sống một đức tin ý thức hòng làm chứng tốt hơn cho đức tin ấy. Nhất là phải cho họ nhưng kiến thức vững chắc về học thuyết xã hội của Giáo hội.
4. Để tiếp tục sứ mạng yêu thương và phục vụ của mình, Giáo hội Công giáo cũng được mời gọi chia sẻ niềm hy vọng của mình bằng cách không ngừng đề nghị con đường đối thoai, vốn bắt nguồn và kín múc sự phong phú trong cuộc đối thoại yêu thương cứu độ của Chúa Cha với nhân loại, qua Chúa Con và trong quyền năng Chúa Thánh thần. Chỉ có sự đối thoại tin tưởng và xây dựng giữa tất cả mọi thành phần xã hội dân sự mới đem lại niềm hy vọng mới cho toàn thể nhân dân Việt Nam. Đối với người kitô hữu, cuộc đối thoại này, thúc đẩy bởi đức ái và ăn rễ vào lòng khao khát được thật sự kết hợp với Chúa Kitô Đấng Cứu thế, nuôi dưỡng mối liên hệ sống động với tha nhân, bất kể là tha nhân nào, trong phẩm giá bất khả nhượng của tha nhân con Thiên Chúa, nhất là khi tha nhân sống cảnh nghèo đói hay bị khai trừ. Anh em hãy khuyên nhủ các cộng đoàn chiêm ngưỡng Chúa Cứu Thế trên bộ mặt những con người mà chính Chúa Cứu Thế đã muốn coi như Mình, để các cộng đoàn nhìn ra trong sự gặp gỡ này, lòng trung thành của Giáo hội với sứ mạng của mình !
5. Như Công đồng Vatican II nhắc nhở chúng ta, « Giáo hội, vì trách nhiệm và quyền năng của mình, không lẫn lộn bất cứ cách nào, với cộng đồng chính trị và không cấu kết với bất cứ hệ thống chính trị nào ». Chính vì thế « cộng đồng chính trị và Giáo hội độc lập với nhau và tự chủ trong lãnh vực thuộc về mình ». Nhưng, vì cả hai đều được mời gọi thực hiện sứ mạng đặc thù của mình nhằm phục vụ cùng một con người, công việc phục vụ sẽ càng hữu hiệu nếu « giữa đôi bên có sự hợp tác lành mạnh » ( Hiến chế Vui mừng và Hy vọng, số 76).
Nhân danh sự « hợp tác lành mạnh » này, Giáo hội kêu gọi mọi thành phần của mình dấn thân cách trung thực để làm tăng trưởng mọi người và xây dựng một xã hội công bằng, liên đới, công minh. Giáo hội không hề chủ trương tiếm vị những nhà lãnh đao quốc gia hay hoạt động thay thế cho ai, một cách cá nhân hay tập thể. Giáo hội chỉ mong ước thực hành sứ mạng đặc thù của mình. Tuy nhiên, qua các thành phần của mình, trong tinh thần đối thoại và cộng tác huynh đệ, Giáo hội mong được góp phần thích đáng vào đời sống quốc gia để phục vụ toàn dân và sự hợp nhất trong xã hội. Khi tích cực tham dự vào việc tăng trưởng nhân bản và tâm linh của con người, từ vị thế của mình và theo ơn gọi riêng của mình, Giáo hội « chuyển tới con người sức sống linh thiêng, nhưng Giáo hội cũng làm lan tỏa ánh sáng của của mình [...] chủ yếu bởi vì Giáo hội phục hồi và nâng cao phẩm giá con người, củng cố sự liên kết trong xã hội loài người và thấm nhuần vào hoạt động thường ngày của con người một ý nghĩa sâu xa hơn » (như trên, số 40).
Để thực hiện sự « cộng tác lành mạnh » đó, Giáo hội mong muốn cộng đồng chính trị hoàn toàn tôn trọng sự độc lập và tự chủ của Giáo hội. Tài sản quý giá, tự do tôn giáo – được nhắc đến tại Công đồng Vatican II, trong những Tuyên ngôn và những Công ước quốc tế – vừa dành cho những cá nhân, vừa dành cho những cộng đồng tôn giáo. Đối với cá nhân, tự do tôn giáo bảo đảm quyền tuyên xưng và tự do thực hành tôn giáo của mình, quyền được tiếp nhận một nền giáo dục dựa trên những nguyên lý của đức tin, quyền theo đuổi ơn kêu gọi tu trì và quyền có những hành động riêng tư, công cộng biểu lộ ra ngoài mối liên hệ bên trong kết hợp họ với Thiên Chúa và với anh em mình. Đối với những cộng đồng tôn giáo, tự do tôn giáo bảo đảm những quyền căn bản như quyền điều hành cộng đồng cách tự chủ, quyền cử hành nghi lễ công cộng mà không bị hạn chế ; quyền công khai giảng dạy đức tin và làm chứng cho đức tin bằng lời nói và bằng chữ viết ; quyền nâng đỡ những tín đồ trong nếp sống tôn giáo ; quyền tuyển chọn, đào tạo, bổ nhiệm và thuyên chuyển các thừa tác viên ; quyền biểu lộ sức mạnh đặc biệt của học thuyết xã hội của mình ; quyền khuyến khích những sáng kiến trong lãnh vực giáo dục, văn hóa, bác ái và xã hội (xem Vatican II, Phẩm giá con người, số 4). Tôi tha thiết cầu mong tất cả mọi thành phần dân tộc kết hợp lại, cùng nhau xây dựng văn minh tình thương, đặt nền trên những giá trị phổ quát hòa bình, công lý, liên đới và tự do.
6. Tôi cám ơn Chúa vì sức sống và lòng can đảm của giáo dân trong các giáo phận. Họ được mời gọi sống và tuyên xưng đức tin trong những điều kiện thường là khó khăn ! Chứng nhân khả tín và nhiệt tình, họ thật đáng là hậu duệ của những bậc tiền bối đã đi trước họ trên con đường của Phúc Âm. Tôi xin họ coi trọng, và càng ngày càng thấy trọng hơn, ơn gọi của người đã được thanh tẩy và « đảm nhiệm vai trò của họ trong đời sống và sứ mạng của Dân Chúa, dù họ ở bất cứ nơi đâu » (Giáo Hội tại Á châu, câu 45). Họ phải có thể sử dụng những phương tiện học hỏi, đào tạo giúp họ trở thành chứng nhân trong đời sống xã hội, chính trị và kinh tế.
Tôi ưu ái chào thăm các linh mục, những cộng sự viên quý báu của Anh em. Họ thanh thản và can đảm rao giảng Tin Mừng Chúa Cứu Thế. Tôi biết các linh mục đã quảng đại và hăng say biết bao để xây dựng những cộng đồng huynh đệ, làm chứng cho một Giáo hội cởi mở và truyền giáo. Họ ý thức rằng nhiệm vụ phúc âm hóa liên hệ toàn thể Dân Chúa và đòi hỏi một niềm hăng say mới, những phương pháp mới và một ngôn ngữ mới. Bổn phận của Anh em là luôn luôn gần gũi họ hơn, để nâng đỡ họ trong những dự tính mục vụ, quan tâm tới cuộc sống thường ngày của họ và nhất là đi bên họ khi họ phải sống những thử thách gắn liền với chức vụ linh mục. Họ cũng cần được sử dụng những phương tiện học hỏi, đào tạo tu đức và tri thức phù hợp với những thách đố truyền giáo mà họ phải đối diện.
Tôi sung sướng thấy rất nhiều người trẻ trong các giáo phận sẵn sàng độ lượng trả lời tiếng gọi của Chúa Kitô trong chức vụ linh mục để trở thành những người quản lý trung tín của những mầu nhiệm của Người. Đây là một dấu chỉ hùng hồn về sức sống của Giáo hội thể hiện qua những người trẻ khát khao những giá trị tâm linh và đến lượt họ, họ muốn chia sẻ với tất cả những anh em khác. Bổn phận của Giám mục là lo chăm sóc sao cho họ có những điều kiện học tập và suy xét vững chắc, bằng cách cẩn thận chọn lựa những nhà giáo dục va nhữngø giáo sư đã trưởng thành trong nếp sống con người và nếp sống linh mục.
Sự nở dộ về ơn gọi trong đời sống tận hiến, đặc biệt đời sống nữ tu, rõ ràng là một ân huệ sáng chói Chúa ban cho Giáo hội tại Việt Nam. Chúng ta phải cám ơn Chúa và Giáo hội không thể bỏ qua ân huệ đó. Tôi khích lệ tất cả những người tận hiến đừng để sự dấn thân truyền giáo của họ suy giảm. Xin họ hết mình sốt sắng rao giảng Chúa Kitô và phục vụ mọi người. Tiếp nối chứng từ táo bạo mà các Tu viện đã nêu cao suốt chiều dài những thế kỷ qua, xin những người tận hiến không ngừng để ân sủng của Chúa biến đổi mình bằng cách hiến thân hơn nữa cho Tin Mừng.
7. Anh em thân mến trong chức vụ giám mục, tôi muốn cám ơn Anh em một lần nữa vì lòng quảng đại và sự dấn thân gương mẫu của Anh em. Tôi cám ơn Chúa vì sự kiên vững và chứng từ can đảm của Anh em. Ước gì đức cậy kitô hữu làm nẩy nở lòng nhiệt thành tông đồ của Anh em và đem lại cho Anh em một nghị lực mới để rao giảng Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế, Đấng đã đến « để con người được sống, được sống dồi dào » (Jn, 10,10).
Tôi phó thác Anh em vào lời cầu bầu của Đức Mẹ La Vang mà Anh em đã đặc biệt mừng lễ năm qua nhân dịp kỷ niệm 100 năm Đại hội Thánh Mẫu ngày 15 tháng 8. Tôi biết tâm tình tin cậy và hiếu thảo của anh em đối với Mẹ Chúa Kitô. Xin Người soi đường chỉ lối cho anh em ! Và cho từng Anh em, cho các linh mục, các tu sĩ nam nữ và tất cả giáo dân Việt Nam, tôi ưu ái ban phép lành Tòa Thánh.
Vatican ngày 22 tháng 01 năm 2002.
+ JP II, Papa
(Chuyển ngữ : ĐMT)