Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Phúc Âm Nhật Ký
TRÊN ÐỈNH NON CAO

(Mt 17:1-9)

Cách đây bốn chục năm, Mục sư Martin Luther King Jr. đã đọc bài diễn văn cuối cùng trước khi bị ám sát (4.4.1968). Ông nói hùng hồn về cuộc tranh đấu bất bạo động để giành công lý cho người Mỹ gốc Phi Châu, nhất là cho những người lao động bị bóc lột tại Memphis, Hoa Kỳ. Cuối bài diễn văn, ông nói mình đang đi “tới đỉnh núi” và nói tiên tri : “Tôi đã thấy đất hứa. Có lẽ tôi sẽ không tới đó với các bạn,” nhưng dầu sao “mắt tôi đã thấy vinh quang ngày Chúa đến.”[1] Chúng ta có thể thấy gương mặt của Môsê nơi Martin Luther King Jr. không ? Tại sao ông có thể lên tới đỉnh núi để quả quyết về tương lai của đồng bào mình như vậy ?

Chắc chắn lời nói và thái độ khẳng quyết ấy phải phát xuất từ một tấm lòng. Chính Martin Luther King Jr. quả quyết : « Tôi biết rằng sau cùng tình yêu là câu trả lời duy nhất cho những vấn đề của nhân loại. Tôi sẽ đi nói về tình yêu khắp nơi. Tôi đã quyết định yêu. Nếu đang tìm kiếm điều tối ưu, thiết tưởng bạn có thể tìm thấy qua tình yêu. Ai có tình yêu là nắm được điểm then chốt thấu hiểu ý nghĩa của thực tại cuối cùng. »[2] Từ trên đỉnh núi, đúng hơn, đỉnh cao của tâm hồn, «ông bắt đầu suy nghĩ về thực tại Gandhi cho là sức mạnh tinh thần, sức mạnh tình yêu và chân lý như một phương tiện biến đổi xã hội. » Ông nói rõ : « Khi cuộc phản kháng bắt đầu, trong ý thức hay vô thức, tâm trí tôi hướng về Bài Giảng Trên Núi và phương pháp phản kháng bất bạo động của Gandhi. »[3]

Từ đầu kỷ nguyên thứ nhất, Chúa Giêsu đã thấy trước sức mạnh tình yêu. Nhưng nếu nói trong một khung cảnh bình thường, có lẽ con người sẽ không thể nhận ra tất cả sức mạnh đó. Bằng chứng khi Chúa Giêsu nói về đau khổ và cái chết sắp tới ở Giêrusalem như một đòi hỏi của tình yêu cứu độ, ông Phêrô đã cực lực phản đối (x. Mt 16:22). Bởi đó, Chúa Giêsu đã đưa ông cùng với hai ông khác lên núi biến hình, không phải để các ông lóa mắt, nhưng để trải qua một kinh nghiệm tuyệt vời về tình yêu giữa  Chúa Giêsu và Chúa Cha, đồng thời biết tại sao phải chấp nhận vác khổ giá theo Người.  

ÐƯỜNG LÊN NÚI CHÚA 

Càng gần ngày khổ nạn, các môn đệ càng được Chúa loan báo những tin không vui về số phận Thày trò. Cơn thất vọng càng lộ rõ trên nét mặt các môn đệ. Trong điều kiện bình thường, có lẽ Chúa đã không thuyết phục được các môn đệ chấp nhận đường lối Thiên Chúa. Bởi đó, Chúa muốn cho các ông một cơ hội và hoàn cảnh khác để thấy những đòi hỏi của Thiên Chúa trong sứ mệnh cứu độ trần gian.

Ðể thực hiện mục đích đó, Chúa dẫn các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan lên một ngọn núi cao, xa cuộc sống tầm thường hàng ngày. Trên vị trí cao xa đó, nếu cứ nhìn xuống, các ông cũng chẳng thấy gì hơn và cũng chẳng có gì thay đổi. Ngay cả khi nhìn vào Chúa trong bộ dạng bình thường, chưa chắc các ông đã đổi được tâm trạng. Bởi vậy, Chúa mới biến hình hay hiển dung. Khung cảnh đã góp phần rất lớn trong việc thay đổi này. Quả thế, nếu không có hai ông Môsê và Êlia đứng cạnh Chúa, chắc chắn cơn hỏa mù chưa biến tan khỏi tâm trí các ông. Từ nay, các ông sẽ thay đổi hẳn cái nhìn về con người và sứ mệnh của Chúa.

Chúa biến hình để các tông đồ biến tính mới có thể lắng nghe và thấu hiểu những gì Chúa Cha nói về Chúa Con. Một khi tâm hồn đã nhìn đúng sự thật, con người phải biến đổi. Cũng như Chúa Giêsu đã “mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân,” (Pl 2:7) để chia sẻ và thông cảm hoàn toàn với thân phận con người, các môn đệ cũng phải “cải biến con người bằng cách đổi mới tâm thần,”(Rm 12:2) và “mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô,”(Rm 13:14) mới có thể hiểu thấu ý định Thiên Chúa. Chúa Cha muốn “Đức Giêsu bị trao nộp vì tội lỗi chúng ta và được Thiên Chúa làm cho sống lại để chúng ta được nên công chính.” (Rm 4:25) Nói khác, Thiên Chúa muốn công lý phải được thiết lập trên trái đất khi Chúa Giêsu đến công bố Nước Trời.

Khi đã được biến cải hoàn toàn, các môn đệ mới có thể lắng nghe sự thật do Chúa Cha khẳng định :  "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.” (Mt 17:5) Bản chất và địa vị Thày đã được xác định. Hơn nữa, mối tương quan thâm sâu và bền chặt giữa Chúa Cha và Chúa Con đã hiển lộ. Chúa Giêsu là Con yêu dấu không những khi mạc khải Thiên Chúa từ bi và đầy lòng yêu thương trong Bài Giảng Trên Núi và lúc chữa lành để loan báo Thiên Chúa chiến thắng ác thần, nhưng cả khi Người bước vào mầu nhiệm đau khổ nữa. Khi vào trong mầu nhiệm này, Người đã tạo được sức mạnh công chính hóa toàn thể nhân loại. Quả thực, “bây giờ chúng ta đã được nên công chính nhờ máu Đức Ki-tô đổ ra.” (Rm 5:9)

Ðó là lý do tại sao Chúa Cha tuyên bố với các môn đệ Chúa Giêsu : “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!" (Mt 17:5) Nếu thực sự vâng nghe lời Người, các môn đệ cũng phải chuẩn bị nên giống Chúa Kitô trong sứ mạng giải thoát và công chính hóa nhân loại. Sứ mạng cao cả đó chỉ được thực hiện nơi cây khổ giá đang đón chờ Thày tại Giêrusalem và các môn đệ khắp nơi trên mặt đất.

Có thể nào, sau khi đã chứng kiến tất cả khung cảnh thần hiển, với cuộc biến hình của Chúa Giêsu giữa hai nhân vật Cựu ước, các môn đệ không nghe lời Chúa Giêsu được chăng ? Từ trên núi xuống, Chúa sẽ nói với các ông điều gì, nêu không phải là : “Hãy theo Thày !” (Lc 5:27) Theo Thày đi đâu ? Thày lên Giêrusalem để chết thê thảm trên thập giá. Chúa đã mạc khải cho các ông biết đó là cái giá phải trả cho Nước Trời, cho công lý trên trần gian. Suốt cuộc đời truyền giáo sau này, các môn đệ đã chứng tỏ cho Thày biết họ đã lắng nghe tiếng Chúa Cha và theo Thày tới mức nào.

Chính vì biết lắng nghe Lời Chúa như thế, các ông đã thấu hiểu ý nghĩa của việc Chúa biến hình : “Khi ánh sáng Thiên Chúa chiếu soi vào đêm trường thất vọng, tâm hồn con người tìm thấy sức mạnh nơi Thiên Chúa, sức mạnh biến đổi cái chết thành chiến thắng và đem lại ơn cứu chuộc cho thế gian.”[4] Ánh sáng tượng trưng cho sự công chính hay công lý Chúa đem đến trái đất. Nếu không có ánh sáng chiếu soi, thế gian vẫn chìm đắm mãi trong bóng đêm tội lỗi bất công. Bởi đó, khi được chan hòa ánh sáng, người môn đệ không thể ngồi yên nhìn bóng tối hoành hành trên mặt đất. 

NHẬP CUỘC

Khi Chúa biến hình, “dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.” (Mt 17:2) Sau đó, “chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông.” (Mt 17:5) Cả Thày Trò đều chan hòa trong ánh sáng tình yêu Thiên Chúa. Trong ánh sáng, các ông mới cảm nghiệm được tình yêu nồng nàn và sâu đậm giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Ðồng thời, họ mới thấu hiểu nguyên tắc liên kết giữa Ba Ngôi. Nguyên tắc đó cũng làm cho con người có thể sống trong nguồn ánh sáng tình yêu. Sở dĩ Chúa Giêsu có thể sống mãi trong tình yêu Chúa Cha, vì như Chúa quả quyết:“Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho Thầy.” (Ga 14:31)

Môn đệ không thể hơn Thày. Phải “vâng nghe lời Người,” họ mới có thể hiệp nhất với Thày trong nguồn sáng tình yêu. Quả vậy, “Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em. Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy." (Ga 14:20-21)  

Chính trong nguồn sáng tình yêu, môn đệ Chúa Kitô khám phá “những nguyên tắc và giá trị có thể duy trì một xã hội xứng đáng với nhân vị. Trong số các nguyên tắc ấy, tính liên đới bao gồm mọi nguyên tắc khác một cách nào đó. Liên đới là ‘một trong những nguyên tắc nền tảng theo quan điểm Kitô giáo về tổ chức xã hội và chính trị.’

Tình yêu ưu việt tỏa sáng trên nguyên tắc này. Tình yêu là dấu hiệu trổi vượt của các môn đệ Chúa Kitô (x. Ga 13:35) Chúa Giêsu dạy rằng ‘luật căn bản hoàn thiện con người và biến cải thế giới là giới răn mới về tình yêu.’ (x. Mt 22:40; Ga 15:12; Cl 3:14; Gc 2:8) Hành vi nhân linh hoàn toàn là của con người khi phát sinh từ tình yêu, biểu lộ tình yêu và hướng về tình yêu. Chân lý này cũng áp dụng trong lãnh vực xã hội. Các Kitô hữu phải là những chứng nhân xác tín sâu xa về điều này, và trong đời sống, họ phải cho mọi người thấy tình yêu là sức mạnh độc nhất (x. 1 Cr 12:31-14:1) có thể đưa tới sự hoàn thiện cá nhân và xã hội, cho xã hội tiến tới điều thiện hảo. ”[5]

Khi đi vào tương quan tình yêu cực độ của Chúa Cha, Chúa Giêsu biến hình.  Chính trong tình yêu, các ông hiểu được cái giá phải trả cho vinh quang Thiên Chúa và hạnh phúc nhân loại. Bởi thế, ông Phêrô không còn lên tiếng phản đối và can ngăn Thày nữa, mặc dù có nghe hai ông Môsê và Êlia “nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem.” (Lc 9:31) Sức mạnh tình yêu không những biến đổi con người, mà cả vũ trụ, vì “Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Ga 4:8)

“Tóm lại, chính mầu nhiệm Thiên Chúa, Tình Yêu Ba Ngôi, là nền tảng cho ý nghĩa và giá trị nhân vị, tương quan xã hội, hoạt động của con người trên thế giới, vì nhân loại đã đón nhận mạc khải tình yêu và chia sẻ mầu nhiệm đó nhờ Chúa Kitô trong Thần Khí của Người.”[6]  Chỉ con mắt đức tin mới có thể nhìn ra được thực tại sâu xa đó. Nếu không có đức tin, không thể cảm nghiệm và vận dụng được sức mạnh tình yêu.

Hơn bao giờ, thế giới đang đói khát tình yêu, vì “việc biến cải thế giới cũng là một đòi hỏi cơ bản của thời đại ngày nay. Ðể đáp ứng nhu cầu này, Quyền Giáo huấn của Giáo Hội muốn cống hiến những giải đáp, rút ra từ những dấu chỉ thời đại. Trước hết, Giáo hội cho thấy, dưới cái nhìn Thiên Chúa, tình yêu giữa con người với nhau là dụng cụ giúp thay đổi mãnh liệt nhất trên bình diện cá nhân cũng như xã hội.”[7] Nếu không có tình yêu Chúa Cha, Chúa Giêsu cũng không thể biến hình, các môn đệ cũng không thể thay đổi, và thế gian vẫn mãi chìm trong đêm tối. Nhưng trong ánh sáng hiển dung, ông Môsê đứng cạnh như chứng minh “Chúa Giêsu là Môsê mới, đưa dân Thiên Chúa vươt qua thế giới nô lệ này mà đi vào đất hứa.”[8] Ông Êlia như nói với các môn đệ rằng Chúa Giêsu là vị Ngôn sứ vĩ đại sẽ tranh đấu cho công lý để xây dựng Nước Thiên Chúa trên trần gian. Người đã chết vì sứ mệnh cao cả đó.

Bước theo Chúa Kitô, người môn đệ không có lựa chọn nào khác ngoài sứ mệnh đó. Muốn cải biến xã hội, họ phải làm cho “tình yêu hiện diện và thấm nhuần vào mọi tương quan xã hội. Ðiều này đúng đối với những ai đang chịu trách nhiệm mưu ích cho các dân tộc. Họ phải nhiệt thành ấp ủ trong lòng và khơi dậy nơi tha nhân tình bác ái là bà chủ và nữ hoàng các nhân đức.”[9] Không có lòng bác ái, con người không biết quan tâm tới tha nhân và sống như một hòn đảo đơn độc ngoài biển cả mênh mông. Giữa cuộc đời đầy sóng bão hôm nay, làm sao hòn đảo đó có thể tồn tại ? Bởi vậy, chỉ khi nào biết liên kết với nhau trong tình bác ái, nhân loại mới đủ sức tồn tại và phát triển. 

TẤM GƯƠNG VĨ ÐẠI 

   Tới nay, không ai có thể quên được Mẹ Têrêsa Calcutta, một con người nhỏ bé nhưng đầy lòng bác ái. Khi phục vụ những người bị xã hội bỏ rơi, Mẹ đã cho mọi người thấy “một chứng từ sống động về tình yêu nồng cháy của Thiên Chúa.”[10] Tháng 9 năm 1946, trên đường đi tĩnh tâm, Mẹ đã được Thiên Chúa kêu gọi “phục vụ Chúa giữa những người nghèo khổ nhất trong các người nghèo.”[11] Trước cảnh người nghèo bị đọa đầy trong kiếp sống lầm than, “Mẹ đã đáp lại tiếng Chúa Giêsu kêu gọi : ‘Hãy đến làm ánh sáng của Thày.’ Mẹ Têrêsa đã để lại một để lại một chứng từ về niềm tin không suy suyển, niềm hy vọng vượt mức và lòng bác ái phi thường.”[12] 

  Tinh thần Mẹ đã lôi cuốn nhiều người bước theo. Ngày nay có trên 5,000 tu sĩ nam nữ và các thiện nguyện viên đang điều khiển khoảng 500 trung tâm trên khắp thế giới, nuôi ăn 500,000 gia đình và giúp 90,000 người cùi mỗi năm.[13] Năm Mẹ qua đời 1997, Dòng Truyền Giáo Bác Ái của Mẹ thực hiện 610 sứ vụ tại 123 quốc gia, bao gồm các nhà tế bần và chỗ ở cho các bệnh nhân HIV/AIDS, các người bệnh phong cùi và ho lao, nhà bếp nấu cháo cho người nghèo, các chương trình cố vấn cho gia đình và trẻ em, các cô nhi viện, và trường học.[14]                           

Chỉ cần một tâm hồn tràn ngập tình yêu Chúa, biết bao cuộc đời sẽ được biến đổi. Tình yêu có sức vạn năng. Ðứng trước đại dương nghèo đói, Mẹ Têrêsa quả quyết : “Người nghèo không cần sự đồng cảm và lòng thương hại của chúng ta. Người nghèo cần tình yêu và lòng trắc ẩn của chúng ta.”[15] Chỉ có tình yêu mới có thể đem lại giá trị lớn lao nhất cho người nghèo. Ai đã hiệp nhất với Chúa trong tình yêu, không thể không thấy Thiên Chúa nơi người nghèo. Ðó là lý do tại sao chúng ta phải tôn trọng nhân phẩm của người nghèo. Có  nhìn nhận như thế, mới có đủ khả năng phục vụ  người nghèo.

Sở dĩ Mẹ Têrêsa có thể làm được những việc vĩ đại, vì Mẹ ý thức “Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta để yêu và được yêu. Bắt đầu cầu nguyện là biết Người yêu tôi, tôi được tạo dựng để làm những việc vĩ đại”[16] trong tình yêu. Ðúng hơn, “chúng ta không thể làm những việc vĩ đại, nhưng có thể làm những việc nhỏ mọn với một tình yêu vĩ đại.”[17] Khi được thực hiện trong tình yêu, dù việc nhỏ mọn nhất cũng thành vĩ đại.

Thế nhưng thế giới mấy ai làm được những điều vĩ đại như thế ? Sở dĩ nhiều vấn đề không bao giờ đượcgiải quyết, vì theo Mẹ, “ngày nay thế giới không có bệnh nào trầm trọng hơn bệnh thiếu tình yêu.”[18] Tình yêu là  khởi điểm và tận điểm của mọi vấn đề. Con đường tình yêu là con đường hiệp nhất với Thiên Chúa ngay trong cuộc sống. Thật vậy, “khi biến cải tình yêu đó sang hành vi tình yêu sống động, chúng ta giao tiếp với chính Thiên Chúa, với Chúa Giêsu.”[19] Với những ai có niềm tin, tình yêu từ muôn ngả dẫn về Thiên Chúa.Từ Thiên Chúa, Mẹ Têrêsa đã đến với người nghèo. Từ người nghèo, Mẹ cũng tìm thấy nẻo đường về với Thiên Chúa. Thật tuyệt vời !

Có thể tóm tắt về con người và cuộc đời Mẹ Têrêsa theo lời tự thuật sau đây : “Về huyết thống, tôi là người Anbani. Về quốc tịch, tôi là người Ấn độ. Về đức tin, tôi là nữ tu Công giáo. Về ơn gọi, tôi thuộc về thế giới. Về  trái tim, tôi hoàn toàn thuộc về Thánh Tâm Chúa Giêsu.” Dù thân hình nhỏ nhắn, nhưng niềm tin sắt đá, Mẹ Têrêsa Calcutta đã được Chúa ủy thác loan báo tình yêu nồng cháy Thiên Chúa dành cho nhân loại, nhất là cho những người nghèo nhất trong các người nghèo. “Thiên Chúa vẫn còn yêu thế gian và Người gởi bạn và tôi làm cho mọi người thấy Người yêu thương và cảm thông với người nghèo.” Mẹ là một linh hồn đầy ánh sáng Chúa Kitô, cháy lửa yêu mến Chúa và nhiệt tình muốn “làm cho Chúa nguôi cơn khát tình yêu và các linh hồn.”[20] 

Tóm lại, từ trên núi biến hình, các môn đệ Chúa Kitô đã lao thẳng vào cuộc đời và đã hy sinh tất cả cho công cuộc cứu độ nhân thế. Cũng thế, Mẹ Têrêsa và Martin Luther King Jr. đã lên tới đỉnh cao tâm hồn để nghe thấy tiếng gọi và chìm ngập trong ánh sáng tình yêu của Chúa. Họ đã tìm được niềm vui khi dâng hiến cả cuộc đời cho những người cùng khổ trong xã hội. Tất cả những nạn nhân của những cơ chế bất công đều phấn khởi trước sức mạnh giải thoát của tình yêu phát ra từ những tâm hồn quả cảm đó.  

Lạy Chúa, xin dẫn chúng con lên núi để thấu hiểu tất cả bản chất và sức mạnh tình yêu. Nhờ đó, chúng con có thể tìm lý do mọi  đau khổ và kiên trì tranh đấu cho công lý trên quê hương và khắp nơi trên thế giới.  Amen. 

đỗ lực 17.02.2008


[4] Raher, K., The Great Church Year.

[5] Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 580.

[6] Ibid., 54.

[7] ibid., 55.

[8] Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ, Kinh Thánh Tân Ước, Lời Chúa Cho Mọi Người, 2005:325.

[9] Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, 581.

[16] Ibid.

[17] Ibid.

[18] Ibid.

[19] Ibid.

Tác giả:  Phúc Âm Nhật Ký, Lm. Đỗ Lực, op.

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!