(Lc 18:1-8)
Nhà văn Nguyễn thị Minh Ngọc vừa xuất bản quyển tiểu thuyết "Ký sự người đàn bà bị chồng bỏ." Quyển sách được xếp vào hạng các tác phẩm bán chạy nhất hiện nay. Minh Ngọc nói : "Ngày xưa, trong hát bội, màu đen, màu trắng, màu đỏ phân biệt rõ từng vai một, còn bây giờ, trong con người tổng hợp nhiều mặt xấu tốt, đôi khi người ta làm một chuyện, nhưng không phải vì người ta có chủ đích muốn làm chuyện đó.” Trong vở kịch "Người hảo tâm thành Tứ Xuyên," Minh Ngọc đã mượn ẩn dụ các ông tiên đi xuống trần gian để tìm một người tốt, để nói lên rằng "không có người nào tốt" vì "ngay đến người gánh nước thuê cũng dùng một cái thùng hai đáy."[1]
Lời Chúa hôm nay đưa ra hình ảnh một ông quan tòa bất chính. Ông đã thử thách lòng kiên nhẫn của bà góa. Ngay khi làm việc tốt, ông cũng không vì cái tốt trong lòng ông. Hình ảnh ông phản ngược với Thiên Chúa. Phải có một cái nhìn sâu thẳm về Thiên Chúa, mới có thể hiệp thông với Chúa và hành động thiết thực và hữu hiệu cho anh em trong hoàn cảnh xã hội hôm nay.
GẶP GỠ ÐỨC KITÔ
Con người không thể sống ngoài tầm nhìn của mình. Nhìn làm sao sống như vậy. Ðó là điều Chúa Giêsu muốn đề cập, không phải chỉ cho việc cầu nguyện nhưng còn cho chính cuộc sống và làm chứng nữa.
Thực tế, nhiều người có cái nhìn lệch lạc về Thiên Chúa. Họ không thể đến với Thiên Chúa, chỉ vì có quá nhiều bất công trong xã hội. Họ nhìn Thiên Chúa như ông quan tòa hôm nay “chẳng coi ai ra gì,”(Lc 18:2) và cũng chẳng quan tâm tới con người. Bởi thế, những bất công mới hoành hành trong xã hội và tạo nên bao thảm cảnh. Ðiển hình, sau những tháng ngày chịu đựng bất công, bà góa đã đến thưa kiện để quan tòa minh xét. Trong cả Cựu và Tân Ước, bà góa thường là nạn nhân của cơ chế bất công. Bà đi tìm công lý đã bị những người đối phương phủ nhận (có lẽ một thân nhân của người chồng quá cố không muốn trả của hồi môn cho bà). Nhưng dù đại diện cho công lý, ông quan tòa đã từ chối giải quyết vấn đề. Cuối cùng, không phải vì tình thương, nhưng để tránh những phiền toái, ông đành phải chấp nhận lời bà năn nỉ.
Tương quan giữa con người trở thành một thứ bất đắc dĩ hay miễn cưỡng. Nhưng Thiên Chúa khác hẳn. Người không phải là quan tòa bất công hay bất lương. Vì người luôn “minh xét cho những kẻ Người tuyển chọn.” (Lc 18:6) Xét xử của Người dựa trên tình yêu, vừa công minh vừa mau mắn. Làm sao thấy được điều đó nơi Thiên Chúa ? Ðó là vấn đề của đức tin. Không có đức tin, không thể kiên nhẫn và không thể thấy cách hành xử hợp tình hợp lý của Thiên Chúa. Im lặng không có nghĩa là không chú ý và không yêu thương. Im lặng chỉ có nghĩa là kiên nhẫn, vì Thiên Chúa có thời gian của Người.
Nhờ đức tin, con người mới có thể kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa trong lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện diễn tả tất cả niềm tin, khơi dậy niềm hy vọng và làm cho đức ái đầy sức sống. Chính khi hiệp thông với Thiên Chúa, con người mới có thể có cái nhìn của Thiên Chúa và khám phá thấy tất cả kho tàng chân lý và tình yêu phong phú trong Lời Chúa.
Làm sao có thể trung thành với giáo huấn đức tin ? Làm thế nào lấy Lời Chúa làm kho tàng khôn ngoan ? Theo thánh Phaolô, cần tìm đến và rao giảng Lời Chúa không ngừng. Thánh Phaolô xác quyết với môn đệ : “Anh đã biết Sách Thánh, sách có thể dạy anh nên người khôn ngoan để được ơn cứu độ, nhờ lòng tin vào Ðức Kitô Giêsu.” (2 Tm 3:15) Rao giảng là gặp gỡ và đối thoại để chuyển giao sứ điệp về Nước Thiên Chúa cho mọi người. Rao giảng là khuyến khích người nghe gặp gỡ sứ điệp Nước Thiên Chúa. Hơn lúc nào, sứ điệp đó sẽ làm mọi người thức tỉnh trước những đối lực đang phá hoại sự sống nhân loại. Ðó là những cơ chế bất công.
Rao giảng Lời Chúa không dừng lại ở việc truyền đạt những kiến thức giáo lý, nhưng phải hành động để “Nước Cha trị đến.” Ðúng như HÐGMVN nhận xét : “Một số nơi, giáo lý vẫn còn bị xem là những bài lý thuyết cần phải thuộc lòng để được lãnh bí tích. Việc giảng dạy chưa thực sự có phương pháp sư phạm phù hợp và chưa đi với chứng từ sống động của người rao truyền.”[2]
Nước Cha trị đến làm sao được, nếu người ta chỉ lo xây dựng đền đài và thu tích của cải và tiện nghi vật chất ? “Vì Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần,” (Rm 14:17) nên Giáo hội không thể rao giảng, nếu không dấn thân hoạt động cho con người và xã hội hôm nay ngày càng công chính hơn. Ðó mới đích thực là truyền giáo.
CÔNG LÝ : CON ÐƯỜNG TRUYỀN GIÁO HỮU HIỆU NHẤT
Muốn dấn thân hoạt động cho công lý, chúng ta phải bắt đầu từ sự công chính của Nước Thiên Chúa. Nếu không cầu nguyện, làm sao có thể thấy được lẽ công chính đó ? Những người lắng nghe Chúa Giêsu phải trực diện với một cái nhìn mới về thực tại đã khởi sự từ Nước Thiên Chúa, nơi các nạn nhân đòi hỏi quyền lợi và tìm công lý. Sự công chính của Thiên Chúa rất khác với con người. Thiên Chúa công chính đứng về phía người yếu thế và bị tổn thương. Thiên Chúa cứu nguy khi dân chúng kêu than ngày đêm. Lời cầu nguyện liên lỉ không chỉ là sự chờ đợi tiêu cực, nhưng là tích cực tìm kiếm công lý cho Nước Thiên Chúa. Thực thế, chỉ nhờ lời cầu nguyện, chúng ta mới có thể trung thành giữ vững đức tin và hoạt động cho công lý. Hơn bất cứ lúc nào, Giáo hội ngày nay phải sống bằng lời cầu nguyện. Chính vì thế, trong ngày truyền giáo năm nay, ÐGH Bênêđictô 16 đặc biệt kêu gọi các dòng kín cầu nguyện cho việc truyền giáo.
Trước khi tuyển chọn các môn đệ và sai đi truyền giáo, Chúa Giêsu đã cầu nguyện. Người đã từng lên núi, vào sa mạc, vô đền thờ cầu nguyện trước khi công bố Nước Trời và thiết lập Giáo hội để tranh đấu cho công lý. Quả thực, Giáo hội có sứ mệnh “công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức.” (Lc 4:18) Ðó là bản chất và sức mạnh của Giáo hội. Vậy mà không hiểu tại sao lại có nhận định : “Giáo hội không phải là cơ chế trực tiếp hoạt động cho công bằng xã hội. Nhưng cơ chế để thực hiện công việc bác ái từ thiện thì Giáo hội phải có, vì nó là dấu chỉ hữu hình cho Tình yêu của Thiên Chúa mà Giáo hội muốn rao giảng và làm chứng.”[3] Nếu thế, cơ chế nào trực tiếp hoạt động cho công bằng xã hội ? Chẳng lẽ Giáo hội chỉ đưa ra những nguyên tắc cho người khác áp dụng, còn mình một ngón tay không nhúng tay vào ?
Cả cuộc đời Chúa tóm gọn trong công cuộc hoạt động cho quyền làm người. Cũng như Chúa Giêsu, Giáo hội được sai đến trần gian để giải thoát các nạn nhân của cơ chế bất công. Nếu sứ mệnh Giáo hội không trực tiếp hoạt động cho công bằng xã hội, các Giáo hội ở Phi Châu, Nam Mỹ, Ðại Hàn đã đi ra ngoài đường lối của Chúa. Thực tế, chính vì đã dấn thân tranh đấu cho công bằng xã hội, các Giáo hội đó đã tiến bộ vượt bực. Còn GHVN đã tới tới đâu, so với các Giáo hội anh em, sau bao nhiêu thế hệ hoạt động không mỏi mệt vì bác ái ?
Hơn nữa, nếu Giáo hội không phải là cơ chế trực tiếp hoạt động cho công bằng xã hội, tại sao ÐGH Phaolô 6 thiết lập thiết lập Ủy Ban Giáo Hoàng “Công lý và Hòa Bình,” để thể hiện ước vọng các nghị phụ công đồng Vatican II ? Các nghị phụ đã coi như một cơ hội rất lớn khi thiết lập Uỷ Ban này như một cơ chế của Giáo Hội hoàn vũ nhằm hoạt động để cả công lý và tình yêu Chúa Kitô đối với người nghèo được thăng tiến khắp nơi. Một cơ chế như thế có nhiệm vụ khuyến khích cộng đoàn Công giáo đẩy mạnh công cuộc tiến bộ nơi các miền nghèo đói và công bình xã hội trên khắp thế giới.”[4] Tiến bộ và công lý không thể hiện hữu nếu không có nhân quyền. Chính vì thế, Giáo hội không ngừng cổ võ và hoạt động để giành lại cho con người quyền làm người. Ðó chính là bước đường theo Chúa Kitô. Ðó cũng là con đường truyền giáo hữu hiệu nhất.
KHÔNG CÓ PHƯỚC BẰNG BÀ GÓA
Sau khi nêu cao sứ mệnh trả lại quyền làm người cho những người bị áp bức, giam cầm và nghèo khổ, Chúa Giêsu tuyên bố : “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.”(Lc 4:21) Từ đó, Tin Mừng luôn có tính thời đại và thực tế. Tự bản chất, Tin Mừng là một tin. Tin tức không thể mang tính hôm qua hay ngày mai. Bởi thế, Tin Mừng luôn chuyển tải sứ điệp của Thiên Chúa cho người thời đại.
Những gì liên quan tới công lý là những vấn đề nóng bỏng trong xã hội Việt nam hôm nay. Thế nhưng những vấn đề sôi động đó đã không được đề cập đến trong Thư Chung của HÐGMVN năm 2007. Chủ đề là vấn đề giáo dục, chứ không phải công bằng xã hội. Ðề tài xoay quanh “Xã hội và Giáo hội ngày mai,” chứ không phải hôm nay. Tất cả nhằm chuẩn bị cho ngày mai. Còn ngày hôm nay không quan trọng ?! Rõ ràng có một sự né tránh vì sợ hãi quyền lợi của Giáo hội bị giảm sút hay tước bỏ.
Ngay trong phần mở đầu lá thư chung, chỉ thấy các GMVN “bày tỏ niềm cảm thông và phân ưu sâu sắc đối với các thân nhân và nạn nhân vụ sập cầu Cần Thơ ngày 26-09-2007 và cơn bão số 5 (Lekima) ngày 02-10-2007.”[5] Thế còn những nạn nhân của cơ chế bất công và cũng là những người anh em như cha Nguyễn Văn Lý ở đâu ? Sao không thấy các ngài bày tỏ niềm cảm thông ? Nếu không cảm thông với người anh em đang ngồi tù vì tiếng nói lương tâm và vì sứ mệnh cao cả, các ngài có công bình không ? Càng ngày càng thấy niềm tin và thực tế không đi đôi với nhau.
Trong lá thư chung đó, chỉ có một ghi nhận đáng kể về tình trạng Giáo Hội bị gạt ra ngoài cơ chế giáo dục hôm nay: “Nhưng cũng đáng tiếc là đối với các tổ chức tôn giáo tại Việt nam, cánh cửa giáo dục vẫn còn khép chặt: tôn giáo chỉ có quyền mở trường tư thục cấp mẫu giáo. Dù vẫn không ngừng nỗ lực làm tất cả những gì được phép để thể hiện sứ mệnh nhập thế, như mở lớp tình thương, lập quỹ học bổng cho học sinh nghèo hoặc khuyết tật, Giáo Hội công giáo, với tư cách là tổ chức tôn giáo, đành phải đứng bên lề sự nghiệp giáo dục của xã hội Việt nam và, vì không có quyền nhập cuộc, đành đóng vai một quan sát viên bất đắc dĩ.”[6] Lời than vãn này giống như tiếng muỗi kêu vo ve bên tai Nhà Nước. Sao không nói lên tiếng người để những con người đó có thể nghe? Tất cả cộng đoàn dân Chúa đều muốn biết lý do tại sao các ngài không lên tiếng cảm thông với những người đang tranh đấu cho công lý ? Các ngài hứa lên tiếng về vụ án linh mục Nguyễn Văn Lý vào dịp họp thường niên tháng 10. 2007. Lời hứa đâu cả rồi ? Bao nhiêu chờ đợi mỏi mòn trở thành công dã tràng. Dân Chúa hôm nay không có phước bằng bà góa năm xưa !
Tóm lại, muốn thực thi sứ mệnh truyền giáo, Giáo hội cần kiên nhẫn lắng nghe tiếng Chúa và cầu nguyện không ngừng. Không có đức tin sâu xa, không thể thấy được tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại trong cuộc sống hôm nay. Nhưng ngày xưa, trước tình trạng quá nhát sợ của các môn đệ, Chúa đã trấn an : “Thầy nói cho anh em là bạn hữu của Thầy được biết: Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác, mà sau đó không làm gì hơn được nữa.” (Lc 12:4) Có lẽ hôm nay các môn đệ Chúa quá sợ kẻ chỉ giết thân xác, đến nỗi quên cả sứ mệnh Thiên Chúa ủy thác ? Nhát sợ là dấu chứng tỏ đức tin chưa nhập cuộc hay chưa hiện hữu thực sự. Nhìn vào tình trạng đó, mới thấy Chúa có lý khi nói : “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng? "(Lc 18:8)
Lạy Chúa, xin cho chúng con ngày càng tin tưởng mạnh mẽ để có thể hiệp thông với Chúa trong lời cầu nguyện và chia sẻ với anh chị em chúng con trong công cuộc tranh đấu cho công lý và nhân quyền hôm nay. Amen.
đỗ lực
21.10.2007
[4] Gaudium et Spes, 90: AAS 58 (1966), 1112; trích lại từ Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Giáo hội, 99.