Liệt kê các
nội dung về tự do tôn giáo trên bình diện cá nhân và trên bình diện cộng đồng
trong bức thư ngày 1 tháng 9 năm 1980 của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đích thân
gửi cho từng vị nguyên thủy các quốc gia đã ký tên vào Bản văn kết thúc Hội nghị
Helsinki về an ninh và hợp tác ở Âu Châu năm 1975.
Trích số 4 của Bức Thư.
4- Dựa vào các tiền đề và nguyên
tắc nêu trên, Tòa Thánh cho rằng mình có quyền và bổn phận đưa ra một bản phân
tích các yếu tố đặc loại liên quan đến ý niệm về « tự do tôn giáo » cũng
như về phương cách áp dụng trên bình diện cá nhân và cộng đồng trong những sinh
hoạt cụ thể. Trong cách nói cũng như trong việc ứng dụng tự do tôn giáo, người
ta đều nêu lên sự hiện diện của các bình diện cá nhân và các bình diện cộng đồng,
tư và công ; hai yếu tố đó luôn gắn bó mật thiết với nhau để cho việc thực thi
tự do tôn giáo đạt được những chiều kích bổ sung và tương thuộc :
a/ Trên
bình diện cá nhân, phải tôn trọng:
- tự do gia nhập hay không gia
nhập vào một niềm tin và vào một cộng đồng tôn giáo liên hệ;
- tự do thực thi các hành vi cầu
nguyện và phụng tự, bằng phương cách cá nhân hay tập thể, nơi riêng tư hay một
cách công khai, và có được những nhà thờ hoặc những nơi thờ tự theo nhu cầu của
tín đồ đòi hỏi ;
- tự do của bậc phụ huynh giáo
dục con cái mình theo niềm tin tôn giáo mà họ ôm ấp, và có thể đưa con cái học
giáo lý và các nội dung tôn giáo do cộng đoàn đảm trách ;
- tự do của các gia đình trong
việc chọn lựa trường học hoặc các phương cách khác để bảo đảm cho con cái mình
về việc giáo dục tôn giáo mà không trực tiếp hay gián tiếp chịu thêm những gánh
nặng phụ thuộc làm ngăn cản việc thực thi quyền tự do nầy;
- tự do dành cho những người cần được sự trợ giúp
về mặt tôn giáo bất cứ ở đâu, đặc biệt nơi trong các cơ sở y tế công cộng (dưỡng
đường, nhà thương), trong các trại lính và trong các dịch vụ bó buộc của nhà nước,
cũng như trong các trại giam;
- tự do không bị ép buộc phải làm
những điều trái với niềm tin tôn giáo của mình, trên bình diện cá nhân, công dân
hoặc xã hội, cũng như không bị ép buộc phải chấp nhận một lối giáo dục, hoặc
tham gia vào những nhóm hoặc hội đoàn có những nguyên tắc đi ngược với những niềm
tin tôn giáo của riêng mình;
- tự do không phải vì những lý
do tôn giáo của mình mà chịu những hạn chế hoặc những kỳ thị trong những lãnh
vực sinh hoạt của đời sống (liên quan đến sự nghiệp cũng như học vấn, việc làm,
nghề ngiệp; tham gia vào các trách vụ công dân và xã hội, v.v.) so với các
thành phần công dân khác.
b/ Trên bình diện cộng đồng, phải xem các tôn giáo, từng qui tụ các
tín đồ thuộc một niềm tin tôn giáo nhất định,
thực sự hiện hữu và hành động như những cơ năng xã hội được tổ chức theo những
nguyên tắc về tín lý và dựa vào những cứu cánh
liên hệ mật thiết với các định chế đặc loại của họ.
Như vậy, Giáo hội, cũng như các cộng đồng tôn
giáo nói chung cần hưởng những quyền tự do nhất định, để sống và theo đuổi các
cứu cánh riêng của mình; trong các quyền tự do như thế, đặc biệt phải nêu lên :
- tự do có một hàng giáo phẩm riêng của mình hoặc
các thừa tác viên liên hệ được hàng giáo
phẩm của mình tự do chọn lựa theo những qui thức của cơ chế tôn giáo mình;
- tự do cho các người hữu trách các cộng đồng tôn
giáo - và trong giáo hội công giáo là các
giám mục và các cấp lãnh đạo khác trong giáo hội -, thực thi một cách thanh thản
thừa tác vụ của mình, phong chức các linh mục hoặc các thừa tác viên, bổ nhiệm vào các phận vụ của giáo hội, liên lạc và tiếp
xúc với những tín đồ;
- tự do có những học viện đào tạo
tôn giáo và thần học riêng; trong các học viện ấy, tự do tiếp nhận các ứng viên
vào chức linh mục và tận hiến trong dòng tu;
- tự do nhận và phổ biến các sách
tôn giáo liên quan đến niềm tin và nghi lễ; và tự do sử dụng;
- tự do loan truyền và thông tri giáo huấn đức
tin, bằng lời nói và bằng chữ viết, kể các bên ngoài những nơi phụng tự, và tự
do phổ biến quan điểm đạo đức liên quan đến các sinh hoạt con người và tổ chức
xã hội: điều nầy ăn khớp với cam kết của Bản văn kết thúc Hội nghị
Helsinki về việc tạo dễ dàng cho việc quảng
bá thông tin, văn hóa và các hình thức trao đổi kiến thức và kinh nghiệm trong
lãnh vực giáo dục, và trong lãnh vực tôn
giáo ; điều nầy tương hợp với việc truyền bá Phúc Âm của Giáo hội;
- tự do sử dụng các phương tiện truyền thông (báo
chí, truyền thanh, truyền hình) trong mục tiêu như thế;
- tự do chu toàn các sinh hoạt giáo dục, từ thiện,
cứu trợ là những sinh hoạt ứng dụng điều răn về yêu thương anh chị em mình, đặc
biệt đối với những người ở vào hoàn cảnh khó khăn nhất.
Ngoài ra :
- đối với những cộng đồng tôn giáo,
như giáo hội công giáo, có một Thẩm quyền tối cao ở trên bình diện phổ quát,
thì Thẩm quyền nầy, theo đòi hỏi của niềm tin của mình, có trách nhiệm bảo đảm
sự hiệp nhất trong mối hiệp thông nối kết tất cả các mục tử và tín đồ trong cùng
một niềm tin tôn giáo, qua quyền giáo huấn và quản trị : - -tự do có những liên
lạc qua lại giữa Thẩm quyền nầy và các mục tử cững như các cộng đồng tôn giáo địa
phương, tự do quảng bá các văn kiện và các tài liệu của giáo huấn (thông điệp,
huấn thị..)
- trên bình diện quốc tế :
tự do trao đổi về truyền thông, tự do hợp tác, liên đới có tính cách tôn giáo, đặc
biệt là có thể gặp gỡ, hội họp liên quốc gia hoặc quốc tế.
- Cũng trên bình diện quốc tế, tự
do trao đổi tin tức và các nội dung về thần học hoặc tôn giáo giữa các cộng đồng
tôn giáo với nhau.
(Bản dịch N. Đ. Trúc, Định
Hướng)