VỀ LƯU PHƯƠNG, XỨ MẸ
Con đứng lặng giữa phương đình lộng gió
Bốn phía ngân reo mạch đá lặng thầm
Trong mắt ngời, hơi thở ấm nghìn năm
Trong đắm đuối, ngỡ hồn xanh rêu cũ
Mẹ đứng đó, giữa vòm cây cổ thụ
Có tiếng ve ran, ngây ngất mùi hương
Ơi, những người yêu Thánh Giá Lưu Phương
Cây vối võng xòe nghiêng nghiêng hàng giậu
Mẹ dạy con, mỗi sớm mai, làm dấu
Mỗi lần đọc kinh, xin Chúa giữ gìn
Chút gia tài của lòng đạo, đức tin
Thấm đẫm vào con, thành sông, thành suối
Vượt qua bão giông, lênh đênh, chìm nổi
Giữa nhọc nhằn, lam lũ, sống cầm hơi
Bao nhiêu lần, gối lên sóng mà bơi
Từ âu muối còn lưng bên mép chạn
Đến chiếc bình hoa men, màu cánh gián
Vẽ làng quê, thơm mùa lúa chín vàng
Có cả đàn cò soãi cánh bay ngang
Và mùi mật xôi lên từ nong mía
Qua quãng lội, lò vôi, ra nghĩa địa
Nhà với vườn, những đường đất liên thôn
Có tiếng đọc kinh nguyện giỗ cầu hồn
Nếu Chúa chấp tội, nào ai rỗi được
(Rút từ tập thơ "Về cõi trời mênh mang")
Lời bình của Mai Văn Phấn:
Ngày
cuối năm, tôi may mắn nhận được 16 tập thơ và trường ca của nhà thơ Công giáo
Francis Assisi Lê Đình Bảng gửi từ Hoa Kỳ. Lang thang trong thế giới thơ của
ông, tôi bị cuốn hút bởi bài thơ "Về Lưu Phương, xứ mẹ". Một không
gian chan hòa ánh sáng đức tin, nơi mỗi bước chân, hơi thở đều thấm đẫm tình
yêu thương và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Bài thơ tựa dòng suối mát lành, dẫn tôi
về chốn yên bình, nơi nguồn cội yêu thương vô tận.
Thanh âm từ khổ thơ đầu đã vang lên tựa tiếng chuông trầm
ấm, lắng đọng từ Phương Đình Phát Diệm:
"Con đứng lặng giữa phương đình lộng gió
Bốn phía ngân reo mạch đá lặng thầm
Trong mắt ngời, hơi thở ấm nghìn năm
Trong đắm đuối, ngỡ hồn xanh rêu cũ"
Tĩnh
lặng và thiêng liêng. Không gian được bao phủ bởi vẻ uy nghi của đá, vọng vang
lời mời gọi bất tận. Nhà thơ lắng nghe hơi thở và sức sống của nghìn năm đức
tin len lỏi qua từng mạch ngầm của công trình vĩ đại này. Những thoáng
"xanh rêu" trường tồn gợi hình ảnh những chùm rễ ăn sâu vào lòng đất,
tựa những lời kinh cầu nguyện sốt sắng, thấm nhuần trong từng hơi thở, từng
viên đá chốn linh thiêng.
Lưu
Phương là địa danh thuộc huyện Kim Sơn, Ninh Bình – quê hương tôi, nơi có nhà
thờ đá linh thiêng nằm trong quần thể kiến trúc nhà thờ chính tòa Phát Diệm. Nhớ
thuở nhỏ, tiếng chuông từ phương đình Phát Diệm vang lên mỗi sớm mai, đánh thức
tôi dậy học bài, để rồi thanh âm ấy trở thành một phần ký ức sáng trong lòng
đạo. Những vần thơ của Lê Đình Bảng đưa tôi về thời ấu thơ ngập tràn ánh sáng.
Kim Sơn, vùng đất được mệnh danh là "thủ đô của Công giáo", gắn liền
với dấu ấn lịch sử khi Doanh điền sứ – nhà thơ Nguyễn Công Trứ (1778–1858) về
đây khai hoang, lập ra hai huyện Tiền Hải (Thái Bình) vào năm 1828 và Kim Sơn
(Ninh Bình) năm 1829. Kể từ đó, ngọn lửa đức tin luôn thắp sáng miền đất này,
mang lại hy vọng và ơn lành của Thiên Chúa.
Nhà
thơ Lê Đình Bảng không sinh ra tại Kim Sơn. Ông chào đời năm 1942 tại làng Đình
Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh, với nguyên quán ở Thọ Cách, Thái Thụy, Thái Bình. Bài
thơ "Về Lưu Phương, xứ
mẹ" được ông sáng tác trong chuyến viếng thăm Phát Diệm,
khắc họa sinh động vùng đất linh thiêng, giàu trầm tích văn hóa này. Với sự mẫn
cảm tinh tế của một thi sĩ kiên vững đức tin, Lê Đình Bảng đã chiêm ngắm quê tôi
bằng ánh mắt thấu cảm, hòa quyện vẻ đẹp văn hóa, tâm linh và lịch sử.
"Mẹ đứng đó, giữa vòm cây cổ thụ
Có tiếng ve ran, ngây ngất mùi hương
Ơi, những người yêu Thánh Giá Lưu Phương
Cây vối võng xòe nghiêng nghiêng hàng giậu"
Đức Mẹ
Maria là biểu tượng của tình yêu thương vô biên, sự hy sinh âm thầm và sự che
chở dịu dàng đối với con cái của Mẹ. Người đã thánh hóa những hình ảnh dung dị,
sống động xuất hiện trong bài thơ. "Những
người yêu Thánh Giá Lưu Phương" thành hình ảnh biểu trưng cho tình yêu
thiêng liêng, sự hiến dâng trọn vẹn cho Chúa Kitô – Đấng Cứu Độ. Họ là những
tâm hồn sống động với niềm tin mạnh mẽ, dâng hiến cả cuộc đời để làm chứng cho
sự hy sinh của Chúa. Qua đời sống cầu nguyện và hành động, họ lan tỏa đức tin và
chung tay xây dựng Giáo Hội bằng tinh thần trung gian và chuyển cầu của
Đấng-Tình-Yêu. Câu thơ như lời thì thầm của Lê Đình Bảng với ký ức, đồng thời
là lời cầu nguyện sốt sắng dành cho các nữ tu Dòng Mến Thánh Giá Lưu Phương.
Trong ký ức ấy, Lê Đình Bảng đau đáu nhớ về người em gái của ông đã khuất trong
trận bom tàn khốc năm 1972 giáng xuống nhà Dòng Lưu Phương, biến nơi đây thành
tâm điểm của một bi kịch khắc sâu.
"Mẹ dạy con, mỗi sớm mai, làm dấu
Mỗi lần đọc kinh, xin Chúa giữ gìn
Chút gia tài của lòng đạo, đức tin
Thấm đẫm vào con, thành sông, thành suối"
Đức tin trong thơ Lê Đình Bảng được khắc họa như sức sống
vĩnh cửu, truyền từ đời này sang đời khác. Đây là yếu tố quan trọng trong văn
học Công giáo, nhấn mạnh sự kế thừa giá trị tâm linh qua các thế hệ. Câu
thơ "Thấm đẫm vào con, thành sông, thành suối" biểu đạt sức
sống lan tỏa mạnh mẽ, như dòng suối chảy mãi không ngừng, tưới mát và thanh lọc
tâm hồn. Đức tin thiêng liêng là ánh sáng dẫn đường, giúp con người vượt qua
mọi thử thách, phó thác trọn vẹn vào tình yêu vô biên của Thiên Chúa và Đức Mẹ
Maria. Di sản tinh thần này nuôi dưỡng con người, mang đến tình yêu thương và sự
bình an.
Nhà thơ đã tái hiện không gian văn hóa đặc trưng của vùng
đất Phát Diệm, với những phong tục, tập quán của người dân làng biển. Các chi
tiết như "gối lên sóng mà bơi," "âu muối còn lưng bên mép
chạn", "chiếc bình hoa men", "đàn cò", "mùi mật
mía", "quãng lội", "lò vôi", "vườn",
"đường đất"... làm nổi bật khung cảnh sinh hoạt bình dị mà thân thiện,
nơi đức tin và văn hóa hòa quyện.
Bài thơ khép lại với "tiếng đọc kinh nguyện giỗ
cầu hồn" tưởng nhớ và cầu cho linh hồn người đã khuất; cũng là lời
nhắc nhở người đương thời về sự khiêm nhường, lòng ăn năn, niềm hy vọng vào sự
tha thứ và ơn cứu độ. Đó là một biểu tượng của niềm tin vào tình yêu và lòng
thương xót vô biên của Thiên Chúa. Câu thơ cuối cùng vang vọng lời kinh Vực
Sâu: “Lạy Chúa, con ở dưới vực sâu kêu lên Chúa, xin Chúa hãy nhận lời con
kêu van, hãy lắng nghe tiếng con cầu xin. Nếu Chúa chấp tội, nào ai rỗi được”.
Lời kinh này khởi nguồn từ Thánh Vịnh (130: 3-4): "Ôi lạy Chúa, nếu như
Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng?". Nhà thơ muốn nhắn nhủ
rằng con người không thể tự mình thoát khỏi tội lỗi hoặc đạt được ơn cứu rỗi
nhờ nỗ lực cá nhân hay công đức riêng. Thiên Chúa, với lòng nhân từ và thương
xót, không chấp tội con người mà sẵn lòng tha thứ và ban ơn cứu độ cho những ai
biết sám hối và tin cậy Ngài. Lê Đình Bảng hướng bạn đọc đến sự khiêm nhường, biết
nhìn nhận giới hạn và yếu đuối của bản thân, đồng thời trông cậy vào lòng
thương xót của Thiên Chúa.
"Về Lưu Phương, xứ mẹ" là bài thơ giàu
cảm xúc, hòa quyện giữa hoài niệm và đức tin, tôn vinh vẻ đẹp văn hóa Công
giáo. Nhà thơ khắc họa một vùng đất trù phú, nơi con người và thiên nhiên chan
hòa trong tình yêu Thiên Chúa. Bằng những hình ảnh mộc mạc, đậm bản sắc miền
biển, bài thơ kết nối đời sống trần thế với niềm tin thiêng liêng, khơi dậy giá
trị cội nguồn và lòng đạo hạnh, như lời mời gọi hướng đến cuộc sống bác ái và tràn
đầy tình yêu thương.
Giáo thừa, xuân Ất Tỵ
M.V.P