Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

ThánhVịnhĐápCa (NgọcCẩn)

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bernard Nguyên-Đăng
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm BÙI NINH, Gp Bùi Chu
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa BMT
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Ngọc Cẩn
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Giáo Sĩ Việt Nam
PHAOLÔ VÀ ANTIOCH-NƠI KHAI SINH KITÔ GIÁO

 

Bernard Nguyên-Đăng, J.D. 

Lời vào… 

Hơn hai ngàn năm qua, người Kitô hữu trên toàn thế giới nghe nhiều, đọc nhiều và tưởng chừng như hiểu biết rộng, am tường sâu, thông suốt về cội nguồn, cái nôi của Kitô giáo. Phải chăng, cái nôi của Kitô giáo phát sinh từ miền đất Galileo, Jerusalem; hoặc nói rộng ra, cội nguồn của Kitô giáo khai sinh từ miền đất Palestine, nay thuộc về Do Thái? 

Có nhiều lập luận, và chứng minh được rằng, miền “đất thánh thứ hai” (second holyland) của Kitô giáo chính là miền đất Tiểu Á (Asia Minor), thuộc về đế quốc La Mã; nay, thuộc về Thổ Nhĩ Kỳ (Turkiye), và chính cái tên, cái nôi của Kitô giáo cũng đã phát sinh từ đây—Antioch. 

Antioch, một thành phố cực bắc của Syria xưa, nay thuộc về Thổ Nhĩ Kỳ, có tên Antakya, tỉnh Hatay, nơi quy tụ các tông đồ, nhiều cộng sự, rao giảng tin mừng và thành lập nhóm tín hữu mới. Chính nơi đây, tên Kitô giáo (Christianity), danh xưng được chọn cho cộng đoàn tin theo đức Giêsu, chưa thể gọi là giáo hội. Sau khi số tín hữu đông lên, Phêrô trở thành thủ lãnh đầu tiên với phẩm trật Giám Mục tiên khởi, và hiểu một cách khác, chính Phêrô đã mặc nhiên trở thành giáo chủ, giáo hoàng đầu tiên của giáo hội Kitô giáo tại đây, không phải tại Jerusalem hoặc Rôma/La Mã (Italia). 

Sau “Hành Trình Theo Dấu Chân Phaolô” từ Hy-Lạp đến Roma, nhưng chưa đặt chấn đến nơi chôn nhau cắt rốn của Phaolô, chưa rong ruổi trên thành phố cổ Antioch/Antakya, nơi khai sinh của Kitô giáo, không thể trọn giấc mơ chạm sát vào con người lịch sử của Phaolô, các tông đồ, và đặc biệt là đức Giêsu và Mẹ Người, đức Maria. Do đó, nơi đây ghi tóm gọn lại hành trình “Tìm Về Cội Nguồn Kitô Giáo Theo Dấu Chân Phaolô” tại Thổ Nhĩ Kỳ—qua kiến thức, kinh nghiệm sống đạo, nỗi khát khao đi tìm chân lý và đức tin cho riêng mình. 

Chim có tổ, người có tông, có cội nguồn. Như người Do Thái, sau bao nhiêu ngàn năm tảng mác khắp thế giới, họ vẫn muốn quay về lại miền đất của tổ tiên. Và người Việt hải ngoại cũng thế, có người xa quê hương gần, hoặc hơn một nửa thế kỷ, nhưng đau đáu mãi trong lòng muốn quay về lại miền đất của cha ông. Người Kitô giáo, không mấy ai biết rõ về cội nguồn Kitô giáo, dù cho phương tiện truyền thông có ngay trong lòng bàn tay. Đấy là lý do các bài viết nầy được hình thành, viết ra và chia sẻ với tất cả các bạn, không phân biệt tôn giáo, đức tin, giai cấp, truyền thống và kinh nghiệm sống đạo. 

Chuổi bài viết về Phaolô, cội nguồn Kitô giáo và hành trình theo dấu chân Phaolô sẽ được lần lược trình làng, không phải là những pho tín lý, thần học, hoặn suy tư cao siêu về con người thần thọc của Phaolô. Viết, như học giả kinh thánh Ludemann đã viết: Khi tôi nghiên cứu về Phaolô, tôi muốn khám phá những gì ông đã làm, thực hiện, ước muốn, suy nghĩ và cảm nhận–When doing research on Paul, I want to discover what he really did, wanted, thought and felt; quả tuyệt vời. Những trang tạp ghi nầy không có tham vọng như một “nghiên cứu” về Phaolô, không thể khám phá những gì Phaolô đã làm, đã thực hiện, ước muốn, suy nghĩ và cảm nhận của riêng ông—cao vời quá—chỉ mong là một chút hàn huyên, tâm tình, chia sẻ—trong tiếng Anh gọi là “Storytelling”, hiểu nôm na như là thuật chuyện, kể truyện. 

Mời các bạn cùng song hành với người viết qua từng vùng miền, từng địa danh, từng con đường, từng nơi chốn, Phaolô đã đi, đã đến, đã sống, đã rao giảng tin mừng, và rồi, dâng hiến toàn thân, tánh mạng vì đức tin vững chắc của ông tại Roma. 

Việc tìm hiểu liệu hai thánh Phaolô và Phêrô có mặt tại Antiosh khi danh xưng Kitô giáo được công bố lần đầu tiên, cũng như sự hiện diện của các thánh tông đồ và đặc biệt là đức Maria, là một chủ đề phức tạp trong lịch sử Kitô giáo.

 

Hành trình đến nơi khai sinh Kitô giáo-Antioch (Antakya, tỉnh Hatay, Thổ Nhĩ Kỳ)

§ Gặp cô bé tại bến xe 

Chờ lâu tại bến xe, không biết mình chờ có đúng nơi chăng, sao không thấy ai hết. Một cô, trạc 20-25 tuổi đến ngồi gần, mình hỏi (bằng iPhone phiên dịch), “Cô đi Antakya, Hatay?” Cô ta đáp (cũng bằng iPhone phiên dịch): “Vâng. Hoang tàn hết rồi!” Mặt cô buồn rõ nét! Không thốt thêm một lời gì. Mình biết hôm tháng Hai, 2023, nhiều trận động đất với tỷ lệ 8.00 (theo biểu đồ….), khoảng 52,000 người thiệt mạng, san bằng hầu hết di tích lịch sử, trong đó có nhà thờ thánh Phaolô; nhưng, không theo dõi nhiều, nên không hề biết Antakya bị đến cỡ nào. Dân số Antakya-Hatay năm 2000 khoảng 145,000. 

Lên xe, mỗi người ngồi một nơi, đã vậy, truyền thống xe đường dài bên Thổ Nhĩ Kỳ (Hồi giáo chiếm gần 98%) không bán vé cho hai người khác phái, xa lạ, ngồi bên cạnh nhau, nên mất cơ hội hỏi han thêm nhiều. 

Đường từ tỉnh lỵ Adana đi về Antakya (Antioch), hướng đông, khoảng hơn 40 kilomet, hầu hết là núi đồi hai bên, lắm nơi, chỉ băng qua dọc chân núi.  Không biết hai ngàn năm trước các tông đồ di chuyển về phương tây để truyền đạo phải đi bằng cách nào, nếu không chỉ bằng đường biển, tàu thuyền. Đã vậy, thuở ấy, không ai định cư trên tuyến đường, vì không có đường sá rộng rãi và an toàn như ngày nay; thêm vào đó, ắt hẳn cây cối um tùm, hoang vu, không dễ gì đi bằng lừa hay ngựa.

 

§ Bác tài xế Taxi 

Đến bến, toạ lạc bên ngoài phố cổ, nên phải tìm xe đến nhà thờ (hang) kính thánh Phêrô, được biết bởi dân địa phương: “Saint Pierre Church”. Tìm xe bus, không thấy trạm xe nào. Hỏi chủ quán, anh ta nói, chỉ đến đó bằng taxi thôi. Ngay góc ngã tư, thấy một xe taxi, có bác tài già đang dùng điện thoại. Mình hỏi, bác đồng ý đi. Mặc cả giá, bác đồng ý, đi và về lại bến xe, 400 lira. Đường đi hoàn toàn gập gềnh, đất bụi, nhà cửa đổ nát, như cảnh tàn nát sau giai đoạn chiến tranh tàn phá.  

Đến nơi, không một bóng người lai vãng. Mình gõ cửa, một người đàn ông bước ra, cho biết nhà thờ đóng cửa. Mình năn nỉ, anh ta gọi người lính đang canh gác bên trong. Mình lại năn nỉ, “Anh ơi, tôi lặn lội hàng bao nhiêu ngàn dặm đến đây, anh cho tôi xin một phút thôi, chỉ được chụp vài tấm hình”, anh ta dứt khoát từ chối. Hỏi ra, mới biết, nhà thờ đóng của từ thời Covid-19. 

Thất vọng, nhưng không bỏ cuộc. Mình leo lên dốc núi, nhìn vào trong mấy hang toại đạo, có một tảng đá khá lớn có tạc hình đức Maria, nhưng khuôn mặt đã bị phá vỡ.  Từ trên đồi, nhìn xuống bên dưới phố Antakya, hoang tàn, đổ nát gần hết, nhiều nơi đã hoàn toàn san bằng. Chạy ngang qua “Khách Sạn-Viện Bảo Tàng-Hotel Museum”*—bên dưới, khai quật lên, cả một di tích của thành phố cổ, khoảng 2000-2500 năm trước, cũng bị đóng của vì Covid. 

Mình đề nghị bác tài xế đưa đi ăn một nơi nào đó mang tính chất thuần văn hoá, truyền thống ẩm thực của người địa phương. Bác đưa đến một nhà hàng khá khang trang, duy nhất còn tồn tại sau vụ động đất. Bác gọi các món ăn rất tiêu biểu của người bản xứ; tất nhiên, kèm theo chai Yaourt nước (Kefir/Ayran)*, và trà, thức uống dường như là một văn hoá hiếu khách và đặc trưng toàn diện cho cả nước. Sau bữa ăn, bác mời món “tráng miệng”, bác nói, “Anh thưởng thức nhé, đây là đặc sản của nơi nầy, không tìm ra ở bất cứ nơi nào!” Quả thật, món mứt trái cây, ngon thật. 

Ăn xong, bác tài lái xe đưa mình thăm phố cổ, bác chỉ hai bên, hoàn toàn đổ nát. Dừng lại một nơi, có xe cần cẩu và lưới rào ngăn, bác thuyết phục họ cho mình vào chụp hình. Bác chỉ: “Đây, nhà thờ công giáo, sát bên cạnh, đền thờ hồi giáo.” Một vị giáo sĩ Hồi giáo (Imam) ra chào, ông nói, “Chỉ có nơi nầy, các tôn giáo mới tồn tại bên nhau.” Ngôi nhà thờ cổ, không biết đã bao nhiêu ngàn năm tuổi, nhưng chỉ còn một đống gạch vụn chồng chất lên nhau, chỉ nhận diện ra khung cửa trước nhà thờ, dày gần một mét. 

Bác tiếp tục đưa qua những con đường cổ, rất cổ, có thể từ thời trước các tông đồ đến giảng đạo.  Bác dừng lại, ra khỏi xe, bác nói: “Đây, nhà thờ công giáo, kia, nhà thờ chính thống giáo, đó, nhà thờ tin lành.” Mình mải mê chụp hình, quay video; chợt, có một người lái xe đến, bác tài và người đó trao đổi với nhau. Mình tiến lại, anh ta giới thiệu, là một nhiếp ảnh gia, sinh ra và lớn lên tại đây. Anh mở máy, cho xem hình ảnh của Antakya thời vàng son, huy hoàng trước vụ động đất. Anh chỉ, so sánh đường phố Antakya rực rỡ về đêm, nhộn nhịp người và sinh hoạt đầy sức sống, và chỉ từng ngôi nhà đã sập, đổ nát và những đống gạch vụn, không thể nào mường tượng ra không gian của ngày xưa, nỗi buồn sâu thăm không dấu được trên khuôn mặt người trai trẻ đầy nhựa sống.[*] 

Trên đường đưa mình trở lại bến xe, đi xuyên qua khu nhà của bác tài, nay đã san bằng phẳng, chung quanh không gì ngoài đổ nát, mình nghe đâu đấy tiếng khóc than của hàng vạn vạn người, đủ mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, đã đột nhiên bị chôn vùi dưới bao nhiêu toà, căn nhà sập chồng chất lên nhau. Bác tài lặng yên. Chợt có điện thoại gọi, bác trả lời, rồi đưa cho mình. Đầu dây bên kia… “Thưa anh, tôi là con rể của bác tài, tôi là giáo viên, đang dạy ở nơi xa; Ba tôi muốn biết, anh có hài lòng về cung cách phục vụ, dịch vụ đưa tiếp anh trong chuyến viếng thăm quê hương chúng tôi không?” Nghe xong, mình chợt thấy cảm động. Ước gì những người sống bằng những nghề phục vụ xã hội, du khách trên quê hương của chúng ta luôn có một tâm thức, thái độ và cung cách phục vụ như bác tài nầy. 

Thoạt đầu, giữa bác tài và mình nào có biết, nào có thoả thuận đưa mình đi khắp nơi, rồi cùng bàn, cùng chia sẻ mình tâm tình và nỗi niềm của ông, của tiền nhân, tổ tiên, bao nhiêu thế hệ, mấy ngàn năm, đã bám víu mảnh đất lịch sử ấy, những người sống sót vụ động đất. Nếu, ông thay đổi trang phục, ắt trông không khác gì người dân bản xứ thuở xưa, không khác với các tông đồ và tín hữu của thời giáo hội sơ khai. Nhìn lại hình, nhìn ông, với khuôn mặt dịu hiền, chân thành và phúc hậu, thật đáng mến, đáng nhớ. Chợt, liên tưởng đến những người trong cộng đồng Kitô hữu đầu tiên nơi nầy, miên man…Rời Antakya, lòng mãi mãi luyến nhớ.

 

Antioch là đâu, là gì, tại sao Kitô hữu lại nhóm họp tại đây? 

Người công giáo nghe nhiều, đọc nhiều, và học nhiều về giáo hội, khởi nguồn từ Jerusalem, đi ngược về Caphanaum, Nazareth, quê quán của đức Giêsu. Hoặc xa hơn, là Roma, nơi có ngai giáo hoàng, thủ lãnh của giáo hội hơn mười mấy thế kỷ qua. Ngoài ra, ít mấy ai biết nhiều, am hiểu tường tận về nơi khai sinh của danh xưng Kitô hữu-Kitô giáo.  Chính tại đây—Antioch—các tín hữu lần đầu tiên được gọi là "Kitô hữu" (xem Công vụ Tông Đồ 11:26).

 

Ý nghĩa của danh hiệu "Christianity" 

Kitô Giáo, dịch từ tiếng Anh: “Christianity bắt nguồn từ Kitô hữu, "Christian," được công bố lần đầu tiên tại Antioch, thành phố rất sầm uất, nhộn nhịp tại miền cực tây của Syria; danh xưng của những người tin theo đức Giêsu. Tất nhiên, thuở ấy chưa có trong tiếng Anh, chính từ ấy phát xuất từ tiếng Hy Lạp, "Χριστός"; có nghĩa “Người được xức dầu”, "anointed one", đấng thiên sai,  "Messiah". Từ này chuyển tải một ý nghĩa thần học, hệ thống tín lý hết sức sâu đậm—trọng tâm chính là đức Giêsu, hoặc đức Kitô (“Christ”). 

Việc các tín hữu tại Antioch được gọi là Kitô hữu” là một bước ngoặt trong sự phân biệt với Do-Thái giáo truyền thống. Điều này cũng phản ánh sự căng thẳng nội bộ trong cộng đồng giữa các tín hữu Do-Thái và dân ngoại về việc tuân giữ Luật Môisen. Sự kiện này đặt nền móng cho sự lan truyền của Kitô giáo ra ngoài giới hạn Do-Thái và trở thành một phong trào quốc tế 

Antioch trở thành điểm khởi điểm quan trọng của nhóm Kitô hữu đầu tiên và là nơi khởi nguồn cho các hành trình rao giảng Tin Mừng của Phaolô, thay vì tại Jerusalem hay các nơi khác ở Palestine, bởi nhiều yếu tố lịch sử, văn hóa, và xã hội. Dưới đây là phân tích và lý giải chi tiết về lý do tại sao Antioch giữ vai trò quan trọng này.

 

Vị trí, bối cảnh lich sử, xã hội và đặc điểm của Antioch

Antioch tọa lạc ở phía đông nam của Đế quốc La-Mã (thuộc Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay), là một thành phố lớn và sầm uất trong thế giới cổ đại. Thành phố này có sự đa dạng về văn hóa, với nhiều dân tộc và tôn giáo khác nhau cùng chung sống, bao gồm người Do-Thái và dân ngoại. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc truyền bá Tin Mừng đến nhiều dân tộc khác nhau ngoài phạm vi Do-Thái giáo. 

Là trung tâm thương mại lớn, Antioch nằm trên tuyến đường buôn bán quan trọng kết nối Địa Trung Hải với vùng đất nội địa của Cận Đông. Sự đa dạng văn hóa và sự giàu có của thành phố khiến Antioch trở thành một môi trường lý tưởng để phát triển cộng đoàn Kitô hữu mới, cũng như làm bàn đạp cho các hành trình truyền giáo tiếp theo của Phaolô.

 

Quá trình hình thành

Antioch không chỉ là một nơi tiếp nhận sứ vụ Kitô giáo, mà còn là nơi định hình quan trọng cho sự phát triển của đức tin Kitô giáo trong thế giới La Mã. Phêrô và Phaolô đều có sự hiện diện đáng kể tại đây. Trong khi Phêrô tập trung vào truyền giáo cho người Do-Thái, Phaolô lại mở rộng sứ vụ đến những người dân ngoại, tạo ra sự đa dạng trong cộng đồng Kitô hữu tại Antioch.

Sự đàn áp tại Jerusalem và cuộc tản cư của các tín hữu Kitô

Jerusalem ban đầu là trung tâm của cộng đồng tín hữu Kitô sơ khai, nhưng do áp lực từ chính quyền Do-Thái và các cuộc bách hại—bao gồm cả cuộc tử đạo của Thánh Stêphanô—nhiều Kitô hữu đã phải rời bỏ Jerusalem để lánh nạn tại các khu vực khác; một trong những nơi mà họ tìm đến, chính là Antioch, thành phố tương đối an toàn và tự do tôn giáo hơn so với Jerusalem. Từ Jerusalem, trực chỉ hướng bắc, Antioch năm ngay trong trục lộ quan trọng và tiện lợi, không cần phải dùng tàu bè hoặc các phương tiện lánh nạn khác như Phoenix hoặc Cyprus. (Theo Công vụ Tông Đồ 11:19) 

 

Phaolô và Barnabas tại Antioch

Barnabas là người đầu tiên được cộng đoàn ở Jerusalem cử đến Antioch sau khi nghe tin về sự phát triển của cộng đồng tín hữu tại đây. Barnabas sau đó đã tìm đến Tarsus để mời Phaolô cùng đến Antioch giúp xây dựng cộng đoàn (xem Công vụ Tông Đồ 11:22-26). Phaolô và Barnabas đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố và phát triển cộng đoàn Kitô hữu tại Antioch, và họ được coi là những người đặt nền móng cho việc truyền giáo cho dân ngoại. 

Tại Antioch, hai vị đã rao giảng không chỉ cho người Do Thái mà còn cho dân ngoại, biến Antioch thành trung tâm truyền giáo quốc tế đầu tiên. Điều này cho thấy sự phát triển và hình thành của một cộng đồng Kitô hữu đa dạng về mặt dân tộc và tôn giáo, không còn bị giới hạn bởi gốc gác Do-Thái. 

Antioch: Khởi nguồn các hành trình truyền giáo

Antioch không chỉ là nơi Phaolô và Barnabas xây dựng cộng đoàn Kitô hữu mạnh mẽ, mà còn là nơi xuất phát của các hành trình truyền giáo sau này của Phaolô. Từ Antioch, Phaolô bắt đầu các hành trình truyền giáo đến các khu vực khác nhau của đế quốc La Mã, mở rộng ảnh hưởng của Kitô giáo đến nhiều vùng đất mới. 

Antioch đã trở thành trung tâm truyền giáo chính cho các cộng đoàn Kitô hữu; trong khi Jerusalem dần trở thành nơi tập trung của những người Kitô hữu gốc Do-Thái. Công vụ Tông Đồ kể lại rằng Phaolô và Barnabas được giáo hội tại Antioch chọn và cử đi trên hành trình truyền giáo đầu tiên của họ (xem Công vụ Tông Đồ 13:1-3). 

Mặc dù Barnabas là người được Hội Thánh tại Jerusalem cử đến Antioch để rao giảng và củng cố cộng đoàn, nhưng nhiều tín hữu Kitô từ Jerusalem đã đến Antioch trước đó, sau các cuộc bách hại tại Jerusalem. Họ đã truyền bá Tin Mừng cho cả người Do Thái và dân ngoại (xem Công vụ Tông Đồ 11:19-21).

 

Phaolô-Antioch 

Quan hệ giữa Phaolô và người Antioch 

Quan hệ giữa Phaolô và người dân Antioch có thể được xem là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong việc hình thành cộng đoàn Kitô giáo đầu tiên [ngoài] lãnh thổ Palestine. 

Phaolô quan hệ giữa Phaolô và cộng đồng Kitô giáo tại Antioch được xây dựng trên nền tảng truyền giáo, với trọng tâm là việc mở rộng thông điệp của đức Giêsu đến các dân ngoại. Cộng đồng Kitô hữu tại Antioch không chỉ bao gồm người Do-Thái mà còn bao gồm cả người Hy Lạp và các dân tộc khác, và Phaolô đã có vai trò quan trọng trong việc tạo lập một cộng đồng đa dạng về sắc tộc và văn hóa. 

Ai đã thành lập cộng đoàn Kitô giáo đầu tiên tại Antioch? 

Cộng đoàn Kitô giáo đầu tiên tại Antioch được thành lập bởi một nhóm tín hữu đến từ Jerusalem sau cuộc bách hại của vua Herod Agrippa I vào khoảng năm 44. Nhóm này bao gồm những người Do-Thái tân tòng và có thể là những người theo đạo Do-Thái Hellenistic—người Do-Thái chịu ảnh hưởng của văn hóa Hy-Lạp như Phaolô vậy. Tuy nhiên, nhân vật quan trọng nhất trong việc xây dựng cộng đồng này là Barnabas, người được gửi từ Jerusalem đến để giúp đỡ và giám sát cộng đoàn tín hữu mới này. 

Barnabas sau đó mời Phaolô từ Tarsus đến Antioch để giúp ông trong việc truyền bá Tin Mừng và phát triển cộng đoàn Kitô hữu tại đây. Vì thế, cả Barnabas và Phaolô đều có vai trò quan trọng trong việc thành lập và phát triển cộng đồng Kitô giáo đầu tiên tại Antioch; nhưng vai trò lãnh đạo của Barnabas thường được nhắc đến như là người đã dẫn dắt cộng đoàn từ giai đoạn đầu.

Những thành tựu đáng kể của Phaolô tại Antioch 

Trong thời gian sống và rao giảng tại Antioch, Phaolô đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Dưới đây là một số điểm nổi bật: 

· Mở rộng cộng đồng Kitô giáo đến các dân ngoại: Một trong những thành tựu quan trọng nhất của Phaolô tại Antioch là việc ông và Barnabas đã truyền bá Tin Mừng đến dân ngoại (non-Jews). Đây là bước đột phá trong việc mở rộng Kitô giáo từ một tôn giáo Do Thái thành một tôn giáo phổ quát, bao gồm cả những người không theo Do-Thái giáo. 

· Công đồng đầu tiên tại Jerusalem: Khi Phaolô và Barnabas đối mặt với các tranh cãi về việc có nên yêu cầu những tín hữu không phải người Do Thái tuân theo luật lệ Do Thái hay không, họ đã tham gia vào công đồng đầu tiên tại Jerusalem (khoảng năm 50 SCN) để giải quyết vấn đề này. Công đồng này đã đưa ra quyết định rằng những tín hữu không cần phải tuân theo mọi luật lệ Do Thái, điều này đã mở đường cho việc lan rộng Kitô giáo đến các vùng khác. 

· Truyền giáo và các hành trình truyền giáo: Từ Antioch, Phaolô đã khởi hành trên nhiều chuyến đi truyền giáo đến các vùng đất xa hơn như Tiểu Á và Hy Lạp. Antioch đã trở thành trung tâm truyền giáo của Phaolô, từ đó ông đã mở rộng ảnh hưởng của Kitô giáo trên toàn Đế quốc La Mã.

 

Vai trò của Phaolô 

Phaolô đóng một vai trò then chốt trong quá trình hình thành và củng cố cộng đồng Kitô giáo tại Antioch. Ông đã tận dụng Antioch như một căn cứ để thực hiện các chuyến truyền giáo rộng rãi của mình đến vùng Tiểu Á và châu Âu. Phaolô cũng là người đấu tranh mạnh mẽ cho việc đón nhận người dân ngoại vào cộng đồng Kitô hữu mà không cần phải tuân giữ đầy đủ các quy định của Luật Môisen, như đã được thảo luận trong Công đồng Giêrusalem (Công vụ 15).

 

Tại sao Phaolô có mặt tại Antioch? 

Trở về Tarsus sau khi trở lại đạo: Sau cuộc trở lại trên đường đến Damascus (Công vụ 9:1-19), Phaolô đã dành một thời gian tại Damascus và sau đó về quê hương Tarsus (Công vụ 9:30). Trong thời gian này, Phaolô tiếp tục học hỏi và rao giảng Tin Mừng, nhưng không có nhiều tài liệu ghi lại chi tiết về các hoạt động của ông tại Tarsus. 

Barnaba mời Phaolô đến Antioch: Barnaba, sau khi đến Antioch để củng cố cộng đồng Kitô hữu tại đó, nhận ra rằng Phaolô sẽ là người cộng sự đắc lực trong việc giảng dạy và mở rộng cộng đoàn (Công vụ 11:25-26). Ông đã tìm kiếm Phaolô ở Tarsus và mời ông đến Antioch để giúp phát triển cộng đồng Kitô hữu đang phát triển nhanh chóng, đặc biệt là với số lượng lớn dân ngoại mới trở lại đạo.

 

Phaolô đã làm gì tại Antioch? 

Giảng dạy và rao giảng Tin Mừng: Phaolô đã dành khoảng một năm rao giảng và giảng dạy tại Antioch cùng với Barnaba (Công vụ 11:26). Cả hai đã cùng nhau củng cố cộng đoàn Kitô hữu tại đây, đặc biệt là trong việc giáo dục những người mới cải đạo về đức tin và lối sống Kitô giáo. Antioch là nơi Phaolô có cơ hội thực hành sứ vụ truyền giáo của mình một cách tự do hơn so với các cộng đồng Do-Thái bảo thủ khác. 

Sinh sống bằng nghề thủ công: Một khía cạnh đáng chú ý trong cuộc sống của Phaolô là ông thường tự kiếm sống bằng nghề thủ công, đặc biệt là làm lều (Công vụ 18:3). Điều này giúp ông không phụ thuộc vào các cộng đoàn mà ông phục vụ, đồng thời thể hiện sự độc lập trong sứ vụ của mình, không trở thành gánh nặng cho cộng đoàn. Tại Antioch, rất có thể Phaolô tiếp tục nghề này để tự nuôi sống mình trong khi tập trung vào công cuộc truyền giáo. 

Cộng sự với Barnaba và các nhà truyền giáo khác: Cùng với Barnaba, Phaolô đã làm việc chặt chẽ với các tông đồ và cộng sự khác trong việc tổ chức và điều hành cộng đoàn Kitô hữu tại Antioch. Cả hai đã trở thành những người lãnh đạo tinh thần của cộng đồng, được kính trọng vì những đóng góp của họ cho sự phát triển của Giáo hội tại đây. Ngoài ra, họ cũng đã cử các nhà truyền giáo khác đi các vùng lân cận để mở rộng công cuộc rao giảng Tin Mừng. 

Nếu không có sự hiện diện của Phaolô, có khả năng cộng đoàn Kitô hữu tại Antioch sẽ không phát triển mạnh mẽ hoặc không mở rộng đến các tín hữu dân ngoại một cách rộng rãi như đã xảy ra. Dù Barnaba đã có mặt và đóng vai trò lãnh đạo ban đầu, nhưng Phaolô với tầm nhìn về việc truyền giáo cho dân ngoại đã góp phần to lớn trong việc mở rộng và định hình cộng đoàn này. 

Vai trò của Phaolô và Barnaba trong việc xây dựng cộng đoàn tại Antioch 

Sự hiện diện và sứ vụ của Phaolô tại Antioch là yếu tố thiết yếu trong việc định hình cộng đoàn Kitô giáo đầu tiên bao gồm các tín hữu dân ngoại. Kinh Thánh ghi lại rằng khi Barnaba đến Antioch để củng cố cộng đoàn, ông nhận ra nhu cầu của việc mở rộng và dạy dỗ các tín hữu mới cải đạo từ dân ngoại. Vì lý do đó, Barnaba đã tìm kiếm Phaolô tại Tarsus và đưa ông trở lại để giúp đỡ trong công việc này (Công vụ 11:25-26). Phaolô, với kinh nghiệm truyền giáo và đức tin mạnh mẽ, đã trở thành một trong những nhân vật chính trong việc giảng dạy và củng cố cộng đoàn Kitô hữu tại đây. Chính nhờ sự giảng dạy và lãnh đạo của Phaolô và Barnaba mà cộng đoàn Kitô giáo tại Antioch trở nên mạnh mẽ và phát triển nhanh chóng. 

Nếu không có sự hiện diện của Phaolô, có khả năng cộng đoàn Kitô hữu tại Antioch sẽ không phát triển mạnh mẽ hoặc không mở rộng đến các tín hữu dân ngoại một cách rộng rãi như đã xảy ra. Dù Barnaba đã có mặt và đóng vai trò lãnh đạo ban đầu, nhưng Phaolô với tầm nhìn về việc truyền giáo cho dân ngoại đã góp phần to lớn trong việc mở rộng và định hình cộng đoàn này.

 

Những cộng sự chính của Thánh Phaolô tại Antioch 

Suốt cuộc đời trần thế của Phaolô, ông không sống một mình, làm việc mưu sinh, ngay cả hành trình rao giảng tin mừng cho đến cuối đời, không đơn thân độc mã. Ông đã có nhiều cộng sự đồng hành và hỗ trợ ông trong sứ vụ truyền giáo, đặc biệt là tại Antioch, nơi cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên được hình thành. Các cộng sự này đóng góp quan trọng trong việc xây dựng và củng cố cộng đồng Kitô hữu sơ khai, và mỗi người đều có vai trò riêng trong công cuộc truyền giáo.

 

1. Barnaba (Barnabas):

 Vai trò: Barnaba là một trong những cộng sự gần gũi nhất của Phaolô trong sứ vụ truyền giáo tại Antioch. Ông được gọi là "con trai của sự an ủi" và nổi tiếng với tính cách nhân hậu, hòa giải. Barnaba đã giới thiệu Phaolô với các tông đồ tại Giêrusalem sau khi Phaolô trở lại đạo, giúp Phaolô được chấp nhận trong cộng đồng Kitô hữu. Tại Antioch, Barnaba đã được gửi từ Giêrusalem để kiểm tra và củng cố cộng đoàn đang phát triển tại đây (Công vụ 11:22-26). Ông cùng Phaolô lãnh đạo sứ vụ truyền giáo đầu tiên của Kitô giáo đến các vùng ngoại biên. 

 Đóng góp: Barnaba đóng vai trò quan trọng trong việc lãnh đạo cộng đoàn Kitô hữu tại Antioch, cùng với Phaolô, dạy dỗ và củng cố đức tin cho các tín hữu mới, đặc biệt là các tín hữu dân ngoại. Ông cũng đóng góp vào việc giải quyết các vấn đề gây tranh cãi giữa các tín hữu Do Thái và dân ngoại.

 

2. Silas:

 Vai trò: Silas (hoặc Silvanus) là một nhà truyền giáo và nhà lãnh đạo Kitô giáo có uy tín, được gửi từ Giêrusalem đến Antioch để hỗ trợ trong công việc truyền giáo. Ông là một người cộng sự thân cận của Phaolô sau khi Barnaba và Phaolô chia tay do mâu thuẫn về việc sử dụng Mark (Công vụ 15:36-40). 

 Đóng góp: Silas đã cùng Phaolô thực hiện các chuyến truyền giáo khác đến nhiều nơi sau Antioch, bao gồm vùng Tiểu Á và châu Âu (Công vụ 15:40). Ông không chỉ là một cộng sự đáng tin cậy mà còn là một người rao giảng xuất sắc và đóng góp trong việc truyền bá Tin Mừng và củng cố các cộng đoàn Kitô hữu.

 

3. Mark (Máccô):

 Vai trò: Mark, cũng được biết đến là tác giả của Phúc Âm Máccô, ban đầu là một cộng sự trẻ tuổi của Phaolô và Barnaba trong sứ vụ truyền giáo đầu tiên (Công vụ 12:25). Tuy nhiên, ông đã rời bỏ sứ vụ khi đến Pamphylia, gây ra một sự rạn nứt giữa Phaolô và Barnaba. 

 Đóng góp: Mặc dù ban đầu không thành công trong vai trò cộng sự, Mark đã trở lại và đóng góp lớn hơn sau này trong công cuộc truyền giáo và soạn thảo tài liệu về cuộc đời của Chúa Giêsu.

 

4. Luca (Lukas):

 Vai trò: Luca là một cộng sự thân thiết của Phaolô và cũng là tác giả của Phúc Âm Luca và Sách Công vụ Tông đồ. Ông đã đồng hành với Phaolô trong nhiều chuyến truyền giáo, bao gồm cả hành trình từ Troas đến Philippi và từ đó đến Rôma (Công vụ 16:10-17; 20:5-15; 21:1-18).

 Đóng góp: Luca không chỉ là một cộng sự đáng tin cậy mà còn là người ghi lại lịch sử của Giáo hội sơ khai, cung cấp tài liệu quý giá về sự phát triển của Kitô giáo và các hoạt động truyền giáo của Phaolô.

 

5. Titus:

 Vai trò: Titus là một trong những cộng sự trẻ tuổi của Phaolô và đã đóng vai trò quan trọng trong sứ vụ truyền giáo của ông, đặc biệt là tại Corinth và các vùng khác. Tít cũng có mặt tại Công đồng Giêrusalem, nơi ông là minh chứng cho sự thành công của Phaolô trong việc truyền giáo cho dân ngoại mà không yêu cầu tuân giữ Luật Môisen (Galát 2:1-3). 

 Đóng góp: Titus đóng góp vào việc củng cố các cộng đoàn Kitô hữu và giúp điều hành các cộng đoàn đó, đặc biệt trong việc truyền giáo và hòa giải các mâu thuẫn nội bộ. 

Những cộng sự này đã góp phần quan trọng vào việc định hình và phát triển Kitô giáo sơ khai, tạo nền tảng vững chắc cho sự lan rộng của đức tin Kitô giáo; đóng vai trò không thể thiếu trong công cuộc truyền giáo của Phaolô, đặc biệt tại Antioch, nơi cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên được hình thành. Mỗi người mang đến những phẩm chất và khả năng riêng, góp phần tạo nên sự đa dạng và thành công trong sứ vụ truyền giáo. Sự cộng tác chặt chẽ giữa họ và Phaolô không chỉ giúp củng cố cộng đoàn Kitô hữu tại Antioch mà còn mở rộng Kitô giáo ra khắp Địa Trung Hải.

 

Xung đột giữa Phêrô và Phaolô 

Tương quan giữa Phêrô và Phaolô không mật thiết như các tông đồ được chính đức Giêsu tuyển chọn, giáo huấn và chia sẻ kinh nghiệm sống trong từng ngày rao giảng. Điều ấy không lạ, vì Phêrô là người không những được chọn, nhưng lại còn được giao phó trọng trách xây dựng và cai quản giáo hội. Trong khi Phaolô lại người đã một thời bắt bớ, cản trở và gây khá nhiều ấn tượng không tốt, đừng nói chi đến nỗi lo sợ và hoài nghi về công bố của Phaolô rằng, chính ông đã gặp đức Giêsu, không bằng xương bằng thịt như các tông đồ; nhưng chính đức Giêsu đã chọn ông, đã mạt khải cho ông rất nhiều về sứ vụ giao rảng tin mừng. Đấy chỉ là trên phương diện con người xác thịt, phản ứng tự nhiên; chưa bàn đến cố lõi thần học. Phêrô và Phaolô đắc thủ và tiếp cận hai thần học hoàn toàn khác nhau, tuy không đối chọi, không đối nghịch, nhưng, đủ để hai ông khó lòng mà đồng tâm hợp ý ra đi rao giảng khắp trời La Mã như Phaolô đã làm. 

Đơn thuần, Phêrô là người rất chơn chất, mộc mạc, kém chữ nghĩa, sinh ra, lớn lên và thuần thục truyền thống Do-Thái. Phêrô mãi mãi muốn duy trì truyền thống Do-Thái trong Ki tô giáo. Căn bản là, con trai, đàn ông, phải chịu “cắt bì”, ăn uống và hành xử rập khuôn theo truyền thống Do-Thái. Trong khi Phaolô không sinh ra tại Do Thái, không hấp thụ truyền thống, đời thường và tư duy theo truyền thống Do-Thái. Vì chính ông ta đã sống cùng, sống với và sống cho một thế giới [ngoài] Do-Thái. Với ông, cắt bì hay không, không bó buộc, vẫn được mời gọi trở thành người Kitô hữu. Không riêng gì với Phêrô; ngay cả với Barnaba cũng vậy, đã có lúc xung đột mạnh, rồi hai người tách rời hành trình rao giảng tin mừng, không có sự hiện diện của nhau. 

Xung đột giữa Phêrô và Phaolô, đặc biệt tại Antioch, là một sự kiện lịch sử nổi bật trong Tân Ước và thể hiện sự căng thẳng giữa các tông đồ về việc xử lý các vấn đề liên quan đến dân ngoại. Trong Thư gửi tín hữu Galát (Galát 2:11-14), Phaolô ghi lại một cuộc đối đầu với Phêrô tại Antioch. Sự kiện nầy nói lên tính cách cương trực, liêm chính và can đảm của Phaolô. “Nếu ông và người Do-Thái, sao ông có thể áp đặt dân ngoại sống như người Do Thái?—If you, though a Jew, how can you force the Gentiles live like Jews?” Chính tinh thần của thần học cách mạng, viễn kiến, sự can đảm và lòng cương quyết của Phaolô, giáo hội Kitô giáo mới có ngày nay, hiện diện khắp hoàn vũ. 

Tuy nhiên, dù có sự xung đột, cả Phêrô và Phaolô đều chia sẻ mục tiêu chung là truyền bá Tin Mừng. Xung đột này cũng đã góp phần vào sự phát triển của Giáo hội, đặc biệt trong việc đưa ra quyết định tại Công đồng Giêrusalem (Công vụ 15), nơi các tông đồ quyết định không buộc dân ngoại phải tuân giữ toàn bộ Luật Môisen. Phaolô đã chinh phục được hầu hết các tông đồ. Quả thật, Phao lô và một tri thức, uyên bác trong sứ mệnh chinh phục các tông đồ và thay đổi hoàn toàn nhãn quan của họ về một thần học mới, thần học của Phaolô. Thêm vào đó, Phaolô là công dân La Mã, uyên thâm tiếng Hy Lạp, cứ đọc các “Thư” của Phaolô, cac nhà học giả đều đánh giá Phaolô và một người viết lách ngôn ngữ Hy Lạp với trình độ cao; không những cung cách viết, nghệ thuật sử dụng từ ngữ; nhưng ngay trong lập luận, lý giải thần học, luận  thuyết Kitô giáo của ông tuyệt vời. 

Cuộc xung đột này cung cấp một cái nhìn sâu sắc vào sự phân chia và đa dạng trong cộng đồng Kitô giáo đầu tiên, mở ra cơ hội cho các cuộc tranh luận học thuật về sự hình thành giáo hội và các học thuyết ban đầu. 

§ Những di tích liên quan đến Kitô giáo 

“Tàn tích của Kitô giáo—vinh quang hơn đỉnh cao văn minh” 

Tuy Antioch là trọng tâm, khởi nguồn cho công cuộc rao giảng tin mừng và là cái nôi khai sinh Kitô giáo; nhưng, từ khi hồi giáo thống lảnh toàn bộ Thổ Nhĩ Kỳ, triều đại Ottoman, những di tích, di sản Kitô giáo khó lòng được bảo quản, trùng tu và sử dụng, chưa kể đến những sự tàn phá chủ tâm của con người và thiên tai. Dù nhiều hay ít, một vài di tích còn lại tại Antioch đáng ghi nhớ như: 

Nhà thờ “Hang” thánh Phêrô (Saint Pierre Church) 

Tương truyền rằng, chính nơi đây, chân núi nhìn xuống phố phường của Antioch, một giáo đường được đục thành cái hang khá lớn, Phêrô đã rao giảng tin mừng cho dân ngoại; tuy không có tài liệu, chứng cứ nào ghi lại, thuật lại các sự kiện thuở ban đầu. Vài thế kỷ sau, giáo đường “hang” ấy được trùng tu và đưa vào các sinh hoạt tôn giáo, thêm một mặt tiền khang trang. Bên trong, không có gì nguy nga lộng lẫy.  Vào thời điểm giáo hội chỉ là một nhóm ngươi rất ít, mỹ thuật tôn giáo chưa xuất hiện, chưa có nhu cầu, và thiết bị nội thất cũng chưa cần đến. Tuy nhiên, được đặt chân lên nơi các tông đồ như Phêrô, Phaolô, Barnaba và các tổ phụ khác đã một lần đi đứng, sống, rao giảng, quả là một cảm nhận vô giá. (Công vụ 11:25-26) 

https://thecatholictravelguide.com/destinations/turkey-2/antioch-turkey-grotto-saint-peter/ 

https://en.wikipedia.org/wiki/Church_of_Saint_Peter

https://mehrexplores.online/exploring-antioch-top-5-historical-places-you-must-visit/ 

Nhà thờ thánh Phaolô (giáo hội đông phương)

Kiến trúc theo kiểu Byzantine, vẫn được sử dụng bởi các tín hữu giáo hội đông phương cho đến khi bị tàn lụi bới các vụ đông động đất. 

Bảo tàng viện (Hatay Archaeology Museum)

Nơi đây, bảo quản và chưng bày rất nhiều cổ vật thời cổ đại, trong đó, có rất nhiều di cảo của thời đại Kitô giáo mới hình thành. Những cổ vật không chỉ giới hạn trong một thế kỷ, thiên niên kỷ, nhưng, bao gồm văn minh năm bảy thế kỷ trước Chúa ra đời. 

Khách Sạn “Museum Hotel Antakya 

Di sản văn hoá tuyệt vời của Antioch, một thừa kế văn hoá và nghệ thuật của nền văn minh Hy Lạp hơn hai ngàn năm trước, mới được khai quật lên gần đây.  Khi công trình xây dựng khách sạn khởi công, đào móng, mới khám phá ngay bên dưới là một kho tàng văn hoá cổ tuyệt vời. Khách sạn vẫn tiếp tục công trình xây dựng, hình thành và mang tên “Museum Hotel”; tuy nhiên, tất cả các di tích cổ hoàn toàn bảo quan rất tốt, không hề bị phá vỡ, đặc biệt là các sàn nhà được thiết bị bằng mãnh vụn sành hết sức tinh tế, minh chứng một thời đại văn minh và văn hoá ưu việt. Tiếc, vì Covid, khách sạn đã đóng cửa, không biết bao giờ mới mở cửa hoạt động lại. Rất nhiều cổ vật tìm thấy nơi nầy giúp các nhà khảo cổ học kinh thánh và nhân chủng học kinh thánh nhiều dữ liệu, tìm hiểu thêm về xã hội Antioch mấy ngàn năm xưa và giáo hội Kitô giáo hai ngàn năm trước. 

https://www.themuseumhotelantakya.com/  

Video 9:20 phút, trình bày rất rõ về di tích, di sản cổ và văn hoá Antioch hơn hai ngàn năn trước. 

Khách Sạn Museum

https://lute.co/museum-hotel-antakya-archaeological-history/

https://www.themuseumhotelantakya.com/mobile/the-museum/index-more.php

https://emrearolat.com/project/the-museum-hotel-antakya/ 

Kim Môn (Iron Gate-Demir Kapi)

Tên là “Iron Gate-Kim Môn”,  nhưng thật ra không phải là cổng bằng sắt, nhưng là một cổng cổ thành Antioch-cao 18 mét, duy nhất còn tồn tại, đứng giữa khe núi Starius và núi Staurin; sử dụng như cái đập, điều chỉnh lưu lượng nước mưa lũ tuôn đổ xuống sông Parmenios, gần “nhà thờ hang” kính thánh Phêrô. Giờ chỉ còn lại một bức thành/cổng nhỏ đã bị hư hại nhiều sau vụ động đất hôm 6 tháng Hai, 2023.  Nơi đây, tương truyền rằng, chính Phaolô và Barbara đẫ giã từ cộng đoàn Kitô giáo, đi băng qua cổng nầy, xuống thuyền đi rao giảng tin mừng tại Cyprus, miền Tiểu Á, Hy Lạp và toàn miền của đế quốc La Mã. 

https://7mostendangered.eu/sites/iron-gate-of-antioch-turkiye/ 

Phải chăng, sách tin mừng Matthêu được biên soạn tại Antioch

Antioch thường được xem là nơi mà sách Mátthêu có thể đã được viết—xuất hiện khoảng năm 80-90— nơi khởi nguồi của Kitô giáo, với một cộng đồng Kitô hữu đa dạng về văn hóa, bao gồm cả người Do-Thái và dân ngoại. Điều này có thể giải thích tại sao Phúc Âm Mátthêu có một cấu trúc rõ ràng và thường đề cập đến mối liên hệ giữa Do-Thái giáo và Kitô giáo. Sách Mátthêu cũng nhấn mạnh sự hoàn thành lời tiên tri trong Cựu Ước, một điều có thể đặc biệt quan trọng đối với một cộng đồng Kitô hữu có gốc gác Do-Thái vào thời điểm ấy.

Cuốn sách này có cấu trúc theo năm bài giảng lớn của đức Giêsu, điều này tương ứng với năm cuốn sách của Torah (cựu ước), thể hiện sự kết nối chặt chẽ với truyền thống Do-Thái giáo. Ngoài ra, Phúc Âm Mátthêu còn đề cập nhiều đến vương quốc của Thiên Chúa, nhấn mạnh sứ mệnh truyền giảng Tin Mừng không chỉ cho người Do-Thái mà còn cho toàn thế giới.

R. T. France, The Gospel of Matthew (NICNT), 2007.

W. D. Davies & Dale Allison, A Critical and Exegetical Commentary on the Gospel According to Saint Matthew, 1988.

 

Antioch-Antylya Hatay ngày nay 

Với một mấu chốt lịch sử vô cùng quan trọng trong sự hình thành Kitô giáo, là trọng tâm cho các hành trình rao giảng tin mừng của Phaolô, Barnabas và các cộng sự, Antioch đã đi vào các văn bản, tài liệu, kinh thánh như một cái nôi, cội nguồn, nơi chôn nhau cắt rốn với danh xưng Kitô giáo/Kitô hữu được công bố. Thế nhưng, số phận Antioch cũng như số phận bao nhiêu giáo hội thời sơ khai đã được nhắc đến trong sách Khải Huyền, đã phải trải qua không biết bao nhiêu đổi thay, từ tên gọi, thể chế, con người, văn hoá, ngôn ngữ, tôn giáo, chiến tranh, tai ương, và rất nhiều lĩnh vực khác.  Dấu vết của cội nguồn Kitô giáo Antioch ngày nay, 2024, dường như đã nhạt nhoà đến nỗi không còn một dấu chỉ nào để nhìn nhận ra cội nguồn Kitô giáo. 

Antioch/Antakya Hatay ngày nay với dân số chỉ còn không tới 150,000, vì sau mấy trận động đất lớn hôm tháng Hai, năm 2023, với hơn 52,000 người thiệt mạng, chẳng còn dấu vết một ngôi giáo đường nào, công giáo hay tin lành, cả chính thống giáo cũng mất dấu tích; và ngay các đền thờ hồi giáo cũng đã biến mất, chỉ còn lại những bãi sỏi đá vụn, bị san bằng—Chứng kiến, mà xót xa lòng! Đã vậy, với tỷ lệ 95-98% cư dân theo đạo hồi giáo, và chính sách hà khắc, khủng bố, sách nhiễu, giới hạn mọi hoạt động Kitô giáo bởi nhiều cá nhân, nhóm người quá khích, khủng bố, trong những thập niên gần đây, biết đến bao giờ hình ảnh cái nôi Kitô giáo tại Antioch/Antakya Hatay sẽ được tỏ hiện lại. 

Trong khuôn khổ chủ đề bài tạp ghi nầy, không thể nhắc đến những gian truân, khốn khó của người Kitô hữu—công giáo, tin lành, chính thống giáo, và bất cứ tôn giáo nào không phải là hồi giáo—hiện đang sống đạo giữa một miền đất mà hồi giáo chiếm đại đa số. Ngay trong buổi sáng chủ nhật người viết đang có mặt tại Istanbul hôm tháng Giêng vừa qua (2024), một người thanh niên mang súng bắn xả vào thánh đường công giáo khi mọi người đang tụ họp tham sự thánh lễ, gây thiệt mạng. 

Nói vậy, biết vậy, nhưng không bao giờ làm sờn lòng nhiều tín hữu tin lành, công giáo; lắm lúc, hy sinh cả tánh mạng để tiếp tục sống, can trường truyền giáo tại Thổ Nhĩ Kỳ, như một sự thách đố với hiểm nguy và sự chết. Và cũng không làm giảm đi những đam mê, sự say mến của khá nhiều người tìm về cội nguồn Kitô giáo, dõi theo những dấu chân xưa của Phaolô, vẫn tiếp nối rất nhiều hành trình tìm về, dù chỉ còn tìm thấy vài nơi, những di tích hoang tàn, đổ nát, hoặc không còn dấu tích gì. Ra đi, tìm lại cội nguồn, chỉ biêt nhìn trời xanh bao la, hít đầy vào lồng ngực dưỡng khí, chân chạm trên vùng đất các tổ phụ, những ngưòi Kitô hữu năm xưa đã nhóm họp, tuyên xưng đức tin—đã toại nguyện lắm rồi. 

https://en.wikipedia.org/wiki/Antakya

Thông tin tổng thể về Antakya Hatay 

https://en.wikivoyage.org/wiki/Antakya

https://en.wikipedia.org/wiki/Hatay_Archaeology_Museum 

Ngay trong thời điểm nầy, hơn sau một năm các vụ động đất đã cướp đi bao tình yêu, hạnh phúc và hy vọng của hơn 52,000 linh hồn tại Antioch/Antakya; những người sống sót, đang níu kéo, bám chặt lấy mảnh đất tổ tiên, quyết không rời. Vô tình, họ đã và đang sống thay cho nhân loại, suy trì, bảo quản mãi miền đất người người tin rằng, chính nơi đây, hai ngàn năm trước, danh xưng một tôn giáo mới đã được khai sinh—Kitô giáo.

 

Vài điểm đáng ghi nhận: 

 Chính phủ quyết tâm xây dựng lại Antakya, kiên cố hơn, bền vững hơn để chống trả lũ lụt, động đất và thiên tai.

 Sẽ có những nhà tạm trú, thay vì lều và nhà thùng (container), an toàn cho sức khoẻ và an sinh của hàng vạn người đã và đang trải qua tháng ngày màn trời chiếu đất.

 Y tế tâm thần của mọi người, không phân biệt tuổi tác, đang được các chuyên gia tâm lý quan tâm và chăm sóc.

 Chợ búa (Bazaars) và truyền thống nhóm họp vẫn là sức mạnh của tập thể và cộng đồng chung xã hội.

 Tiểu thương đã quay về lại, kiến tạo và nỗ lực tiếp tục duy trì sự sống kinh doanh.

 Các cơ sở tôn giáo đang đối đầu với nhiều thách thức về sứ mệnh kiến tạo, phục hưng lại các nơi thờ phượng và sinh hoạt, âu cũng cần vài chục năm, hay cả một thế hệ; tuy sẽ không bao giờ tìm lại được những di tích, gia sản tôn giáo của mấy ngàn năm qua.

 Người dân ý thức và chấp nhận rằng, phải mất nhiều thập niên, hay cả một đời người để xây dựng lại Antakya.

Antioch/Antakya, mãi mãi là hoài niệm không phai nhoà, những hình ảnh mãi mãi hiện diện trong tâm thức những ai đã một lần sinh ra, một lần sống, một lần đến và một lần viếng thăm nơi nầy. 

https://www.washingtonpost.com/world/2024/02/05/turkey-earthquake-one-year-photos/

https://www.todayonline.com/world/ancient-antioch-turns-container-city-year-after-quake-2353061 

https://www.euronews.com/health/2024/02/06/in-the-ruins-of-antakya-turkeys-earthquake-victims-are-left-to-deal-with-their-trauma-alon 

 

Lời cuối… 

Antioch không những quan trọng là nơi nhóm họp của cộng đoàn tin theo đức Giêsu ngay từ thuở kinh thánh chưa được biên soạn, chưa hề xuất hiện; nhưng chính nơi ấy, lại khai sinh ra danh hiệu Kitô hữu/Kitô giáo, là mối giao hoà giữa Barnaba và Phaolô cùng với những người cộng sự khác. Antioch cũng là điểm khởi đầu cho nhiều chuyến đi truyền giáo khắp các miền xứ La Mã, bao gồm cả Hy Lạp. Các người lãnh đạo trong cộng đoàn Antioch như Phaolô, Barnaba, Luca, Marco, Titus, Silas và nhiều người khác, rời xa Antioch, nhưng Kinh Thánh không ghi lại một “Thư” nào gửi đến giáo đoàn Antioch. Vì nơi đó, đã có những nhà truyền giáo ưu việt đảm nhiệm.  Thêm nửa, cộng đoàn Antioch không vướng bận những tranh chấp, bất hoà, hoặc lũng đoạn về đức tin và đời sống đạo đức của cộng đoàn. 

Một sự trỗi dậy và vựt lên của đức tin từ miền đất Antioch, với những biến động, sự kiện và sức sống mãnh liệt của cộng đoàn, không bút viết nào tả xiết những năm tháng—từ lúc nhóm người chạy lánh nạn từ Jerusalem cho đến khi Phaolô, Barnaba, các cộng sự và các vị lãnh đạo tiên khởi qua đi, mãi cho đến công đồng Nicaene năm 325, chính thức thống nhất tổ chức, cơ chế và thần học Kitô giáo. 

Ngày nay, tuy Antioch/Antakya đã bị vùi dập bởi các trận động đất, hơn năm vạn người thiệt mạng; nhưng, Antioch mãi mãi tồn tại trong kinh thánh, trong tâm thức những ai hồi tưởng về cội nguồn Kitô giáo, và tất cả những người thiết tha tìm hiểu, nghiên cứu về sự hiện diện của Antioch trong lịch sử—của không những riêng gì Kitô giáo, nhưng của cả nhân loại nữa. 

Chỉ chủ để đơn sơ thôi, về một địa danh, một sự kiện, cũng không thể nào viết cho xuể. Nhiều học giả kinh thánh nói đã dành trọn một đời để nghiên cứu, học hỏi và giảng dạy về Phaolô, dường như chưa đủ. Vậy, người viết là chi mà dám ước mơ viết trọn những gì tai nghe mắt thấy trên mọi dặm đường Phaolô đã đặt chân đến—cách riêng, tại Antioch. 

Không riêng gì Antioch, hoặc nơi chôn nhau cắt rốn của Phaolo, Tarsus; nhưng, hầu hết những nơi dõi theo dấu chân Phaolo—dường như, mình đã gặp những con người, mọi giai cấp trong xã hội, từ bác tài xế taxi, em học sinh trung học, doanh nhân, sĩ quan cao cấp trong quân đội, nhà tri thức, chủ khách sạn, người buôn bán dọc đường, rất nhiều nơi, nhiều người—tưởng chừng như có sự quan phòng, ơn trên, xếp đặt, đón mình đến, đưa mình đi—dẫn đường chỉ lối, khám phá rất nhiều những ngạc nhiên, từ văn hoá, con người, truyền thống, giá trị tâm linh, và đặc biệt là quan hệ con người, siết chặt trái tim mình với hành trình mình đã đi qua, tiếc nuối, như không muốn rời. 

Viết, chỉ mong đốt lên ngọn nến, khơi dậy lòng khát khao về đức tin của riêng mỗi người, thêm kiến thức, phong phú hoá sự hiểu biết về Phaolô, để rồi cùng nhau thốt lên, “chúng ta cùng say mến Phaolô, như chính Phaolô đã say mến đức Kitô.” 

Bài viết dừng nơi đây, nhưng ý tưởng và khát vọng không khép lại, không đóng kín đam mê tìm tòi, học hỏi và nghiên cứu sâu ra hơn về các chủ đề liên quan đến Phaolô. Không biết Phaolô, không am hiểu Phaolô, khó lòng mà biết Kitô giáo là gì, đức tin là chi và đời sống kitô hữu mang lại giá trị và ý nghĩa gì.

Mời mọi người cùng dấn thân song hành…

BNĐ

Tài liệu tham khảo

· Kinh Thánh Tân Ước: Công vụ Tông đồ (10, 11, 13-16), cung cấp cái nhìn chi tiết về các cộng sự của Phaolô và các chuyến truyền giáo của họ. Ghi lại sự thành lập cộng đồng Kitô giáo tại Antioch và các sứ vụ của Phaolô.  Galát (2:11-14) là những phần quan trọng ghi lại sự hiện diện và vai trò của các tông đồ tại Antioch. Nơi Phaolô mô tả sự căng thẳng với Phêrô tại Antioch về vấn đề liên quan đến dân ngoại. 

· Meier, John P. A Marginal Jew: Rethinking the Historical Jesus”, Vol. III. Double day. 2001. Một bộ bốn cuốn, công trình nghiên cứu nhiều thập niên, trình thuật rất chi tiết về con “người lịch sử của đức Giêsu”, thân thế, xã hội, lịch sử và môi trường sống mà đức Giêsu là trọng tâm. John P. Meier là linh mục công giáo, một học giả kinh thánh và cũng là chủ tịch hiệp họi kinh thánh Hoa Kỳ. Một bộ sách không thể thiếu với những ai say mê kinh thánh và con người lịch sử của đức Giêsu. 

· Everett Ferguson, Backgrounds of Early Christianity (Eerdmans Publishing, 2003). Ferguson mô tả bối cảnh xã hội và tôn giáo của Đế quốc La Mã và sự phát triển của các cộng đoàn Kitô hữu.

· Paul Barnett, Paul: Missionary of Jesus (Eerdmans Publishing, 2008). Barnett xem xét hành trình truyền giáo của Phaolô và vai trò của Antioch trong sứ mệnh của ông.

· F.F. Bruce, Paul: Apostle of the Heart Set Free (1977): Một nguồn tài liệu toàn diện, chi tiết về cuộc đời và sứ vụ của Phaolô, cung cấp bối cảnh về mối quan hệ với Phêrô.  Phân tích vai trò của Phaolô tại Antioch và sự phát triển của cộng đoàn Kitô giáo đầu tiên. 

· Raymond E. Brown, An Introduction to the New Testament (1997): Cung cấp cái nhìn tổng quan về sự phát triển của Kitô giáo sơ khai và vai trò của các tông đồ. Nghiên cứu học thuật về Tân Ước, cung cấp ngữ cảnh về mối quan hệ giữa Phaolô và Phêrô. Một nghiên cứu toàn diện về Tân Ước và vai trò của các tông đồ trong quá trình hình thành Kitô giáo.

· N.T. Wright, Paul: A Biography (2018): Cuốn sách cung cấp cái nhìn sâu sắc về cuộc đời và thần học của Phaolô, đồng thời đặt ra bối cảnh về mối quan hệ của ông với Phêrô và những người khác. Phân tích chi tiết cuộc đời và sứ vụ của Phaolô, đặc biệt là sự phát triển cộng đoàn Kitô hữu tại Antioch.

· Josephus, Jewish Antiquities: Một nguồn tài liệu lịch sử về bối cảnh Do Thái trong thời đại của các tông đồ. Nhà sử học người Do Thái, đã ghi lại về Antioch trong tác phẩm của mình, cung cấp bối cảnh xã hội và văn hóa của thành phố này. 

· Bart D. Ehrman, Peter, Paul, and Mary Magdalene: The Followers of Jesus in History and Legend (2006): Một phân tích hiện đại về vai trò của Phêrô và Phaolô trong lịch sử Giáo hội sơ khai. Một học giả kinh thánh rất uyên bác về Phaolô, đức Giêsu và Kitô giáo nói chung. 

· John B. Polhill, Paul and His Letters (1999): Cuốn sách này phân tích các thư của Phaolô và cung cấp cái nhìn sâu sắc về các hoạt động truyền giáo của ông. 

· Josephus: Nhà sử học người Do Thái, đã ghi lại về Antioch trong tác phẩm của mình, cung cấp bối cảnh xã hội và văn hóa của thành phố này.


BNĐ

Tác giả:  Bernard Nguyên-Đăng

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!