PHẦN HỒN CỦA MỘT LỄ HỘI DÂNG HOA
Lê Đình Bảng
1.
Ở thời điểm này, đời sống cộng đoàn xứ
đạo – nhà thờ mình vừa êm ả đi qua những tháng ngày sa mạc, chay
tịnh, sám hối. Vẫn còn cái cảm xúc ngất ngây vồn vã, trào dâng lên
đỉnh điểm của Phụng vụ Tuần thánh – Tam nhật Vượt qua và đại lễ
Phục sinh. Màu trắng thuần khiết và sang trọng nơi lễ phục của chủ
tế mang ý nghĩa trọn vẹn của một cuộc thanh tẩy, của một quá trình
vượt thoát tội lỗi, của một trời mới đất mới. Trong khi Tuần Bát
nhật như một trạm dừng, môt bản lề khai mở tiếp diễn Mùa Phục sinh
thì tháng 5 đầu hè lại là một chuyển giao thời vụ giữa lúa mùa và
lúa chiêm, giữa tiết trời nắng và mưa, giữa cái cảm giác bứt rứt
khó chịu và chậm rãi, thư nhàn. Phụng vụ và nhịp đời như đã cộng
sinh, đã chuyển hóa thật diệu kỳ, mênh mang.
Vâng,
Tháng 5 dâng hoa Kính Đức Mẹ, từ lâu lắm rồi trong nề nếp sinh hoạt của
hầu hết các nhà thờ – xứ đạo Việt Nam ta, đã là một trong những lễ
và hội lớn, có bài bản, kinh văn. Nó vừa chuyên chở được một nội
dung thiêng thánh, lại vừa thể hiện được khá nhiều màu sắc, nét vẻ,
cung cách, khả dĩ thu hút đông đảo quần chúng. Đến để xem, để nghe
và để sống chan hòa những khoảnh khắc đức tin – lòng đạo: Nguyện
cầu bằng văn hóa nghệ thuật. Phải tài hoa, nho nhã và đạo hạnh
lắm, cha ông ta mới cưu mang, sinh thành được cái nỗ lực sáng tạo vận
dụng ấy từ nguồn mạch phụng vụ, đưa nó vào đời sống. Rõ ràng, Lễ
hội Dâng hoa (LHDH) đã diễn ra trong một không gian – thời gian đậm đặc
mùi đạo. Rõ ràng LHDH là cách cử hành nghi thức hiếu sinh thơm thảo
nhất của những người con thuần thành dâng lên Mẹ hiền. Cả đến thiên
nhiên đất trời mênh mang kia cũng cưng chiều lòng người nữa là. Này
nhé, ở Bắc bộ thì bấc hết, nồm lên, lác đác vài cơn mưa giao mùa.
Còn ở Trung và Nam bộ – do thôi thúc của nắng hạn – đã rợp vườn nhà
những hoa trái chín mọng, đưa hương. Thì ra, ngay từ thuở xa xưa tít
mù, khi truyền thuyết huyền thoại còn thịnh mãn và văn minh nông
nghiệp mới chớm nở, loài người đã biết ngắt những chùm hoa đẹp,
hái những trái cây ngon ở bìa rừng ven suối hoặc nơi đồng nội để
dâng cúng cảm tạ thần linh. Thế rồi, phú quý sinh lễ nghĩa, hoa đi
vào cuộc sống từ bao giờ có ai hay.
Hoa
cúng kiếng lễ tết, hiếu hỉ, giỗ chạp. Hoa mừng sinh nhật, tuổi tôi.
Hoa reo vui tình yêu cưới hỏi trăng mật. Hoa đáp đền ơn nghĩa tổ tiên
ông bà, cha mẹ, tôn sư trọng đạo. Hèn chi, người Trung Hoa đã đưa vào
danh mục cả một bảng phong thần, gọi là “Thập đại danh hoa”.
Mỗi hoa một sắc hương, một biểu tượng hàm ý. Nào thủy tiên, sen,
nguyệt quế, đỗ quyên. Nào mẫu đơn, mai, lan, cúc, lý, quỳ. Trong bài
vãn Dâng hoa kính Đức Mẹ, có gần đủ ngần ấy thứ hoa thơm cỏ lạ.
Mượn hoa để chỉ người. Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung. Tuyệt
vời thay hồn vía cổ thi. Hái hoa dâng Mẹ. Múa hát cũng là một lời
nguyện cầu, nguyện cầu bằng văn hóa nghệ thuật. Hình tựơng Đavít,
Lao Lai Tử cùng thiếu nữ – trẻ em thiếu gì trong Nhã ca và kinh sách
thánh hiền.
2.
Điều này tự nhiên thôi, bởi “có cầu
có thiêng, có kiêng có lành”. Với lại, xét về mặt tự nhiên,
Tháng 5 là dịp khánh hạ, dân con trong xứ họ thường có thói quen cầu
mát cầu mưa. Ai đã từng sống trong khung cảnh đồng quê yên ả, trong
quan hệ xóm làng chân chất, trong tâm tình sùng mộ thiêng liêng, ắt
phải cảm nhận được thế nào là mang tình nhà làm nghĩa đạo, đem
cuộc sống riêng tây pha quyện vào việc chung, hòa nhập việc phần xác
vào việc phần hồn. Không còn nghi ngờ gì nữa, đời sống giáo dân ta
đã vận hành cùng con nước, tuần trăng, mùa màng ta đan xen với lễ
lạy, quấn quýt mà nhịp nhàng. Xuất phát từ những khu cầu trên, phải
chăng Lễ hội Dâng hoa đã mang một tầm vóc, đã có một lịch sử, đã đi
vào đời sống. Chẳng phải ngẫu nhiên đâu. Nó bắt nguồn từ một chiều
sâu của đức tin – lòng đạo, từ một chiều rộng của nhịp đời gió
sương, mưa nắng. Nó tập hợp được những cốt cách tinh hoa từ tình
hình đặc điểm cụ thể của nhiều địa phương, của nhiều truyền thống
phong tục tập quán, đặc biệt từ dòng chảy văn hóa, tư tưởng và tình
cảm tốt đẹp sâu sắc của người mình. Có thể bắt gặp mối đồng cảm
ấy khi ta đọc lời dạy sau đây: “Các tín hữu hãy nhớ rằng lòng tôn
sùng chân chính không hệ tại tình cảm chóng qua và vô bổ: cũng không
hệ tại sự dễ tin phù phiếm, nhưng phát sinh từ một đức tin chân
thật. Đức tin ấy dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của
Mẹ Thiên Chúa và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi
gương các nhân đức của Mẹ chúng ta”.
3.
Vào những ngày này, nhà thờ xứ đạo nào
mà chả rộn rã dâng hoa, ít là những buổi chiều Thứ bảy hàng tuần.
Thế nhưng, không hiểu vì sao LHDH có vẻ như đang nhạt nhòa đi, đang rơi
rớt dần, đang vơi vạn nguồn cảm thụ, hấp dẫn?
Là
người trót mang chút máu lễ hội truyền đời, bản thân kẻ viết bài
này nhiều năm sống mê mải trong hương khói hội hè vang rền nền nảy
đạo đời ấy. Vậy mà có đôi lúc vẫn xót xa, chạnh buồn. Cứ loay hoay
ngẩn ngơ, mãi mà chẳng tìm ra câu giải đáp thỏa đáng. Nói đâu xa,
mùa Thương Khó vừa rồi, lang thang đến một số nhà thờ, tôi chăm chú
xem xem người ta “Ngắm 15 Sự thương khó” và “Kiệu bắt, đóng
đanh, tháo danh, Dâng hạt, táng xác, than mồ Chúa Giêsu” ra làm sao.
Thấy cũng đủ cả lễ bộ, cũng đường bệ bốn cái uy nghi
(đi-đứng-bái-quỳ), cũng i a trầm bổng ca vãn đàng hoàng. Thế mà nghe
mà xem nó cứ dài dại, vật vờ, vô hồn vô cảm làm sao ấy! Nhìn xuống
những hàng ghế, rặt những ông già bà cả, những cây đa cây đề muôn năm
trước! Trai thanh gái lịch đi đâu hết rồi? Tại sao và tại sao? Lòng
đạo đức dân gian là vốn quý kia mà!
Nghĩ
cho cùng, có thể, vì những tinh hoa truyền thống của LHDH không được
kế thừa và phát huy đúng mức? Chuyện sao chép nguyên mẫu, thiếu động
não, thiếu sáng tạo và thiếu cải biên thường dễ rơi vào đơn điệu,
lạc loài, nhàm chán. Có chăng, chỉ làm sống lại một hồi ức xửa xưa
rất xa lạ, rất thụ động đối với cảm thụ nhanh gọn của người đương
thời. “Hát lâu và chầu mỏi” không còn phù hợp với đời sống đô
thị – công nghiệp nữa. Cũng có thể, vì nôn nóng muốn cách tân triệt
để, muốn pha trộn đánh đồng, dung hợp tất cả cũ mới bằng một số
sáng kiến thay thế không xứng tầm mà hậu quả chỉ là những màn
trình diễn tạp kỹ, chắp vá, lai căng, xôi đỗ, không hài hòa. Ở đây,
tôi muốn nói tới cái hiện tượng “các liên khúc Dâng hoa” – tập
hợp một vài ca khúc làm nền để múa minh họa – một loại hình khá
phổ biến, dễ chấp nhận. Đơn giản, vì dễ hát, dễ múa, dễ dàn dựng,
vừa mắt vừa tai của một công chúng đã quen nghe – nhìn các shows sân
khấu truyền hình. Bảo nó là “Dâng hoa”, bảo nó là “Diễn
nguyện”, là “Nghi thức Phụng vụ” e có khiên cưỡng và cường
điệu chăng? Xin dành để rộng đường, chờ dư luận phát xét, tiếp thu.
Đành
rằng tranh thủ được tài hoa, kỹ xảo, điệu nghệ của những nhà vũ
đạo, tập hợp được đầy đủ các phương tiện kỹ thuật hiện đại (máy
móc, thiết bị)và được đầu tư bằng nhiều nguồn (dàn dựng, kịch bản,
sân khấu, đạo cụ, âm thanh, ánh sáng, trang phục) là điều cần thiết
để đáp ứng nhu cầu mới, thời đại mới, con người mới. Tuy nhiên, cả
hai cách làm trên vẫn để lộ ra một số tồn tại hạn chế, từ cung
giọng đến cử điệu, từ hình thức biểu đạt đến nội dung chuyển tải.
Không đơn giản như cái thú được đọc một tờ báo, được nghe một bản
nhạc, được xem một cuốn phim hay choáng ngợp trước những chùm
video-clips trên màn ảnh truyền hình. Đến với LHDH, bên cạnh và bên
trên những nhu cầu tự nhiên ấy, người ta còn muốn kiếm tìm và được
thỏa mãn cái nhu cầu tâm linh, nhu cầu thiêng liêng nữa. Một
tâm tình đạo hạnh, một va chạm thăng hoa bay bổng thông qua cảm
xúc của thẩm mỹ, của văn hóa nghệ thuật. Khi ấy, đức tin đã
thấm đẫm vào cảm xúc lễ hội, trở thành hơi thở dạt dào trong máu
thịt của cộng đoàn. Từ chuyển dịch văn hóa đến tiếp biến văn hóa
và phát triển văn hóa để phục vụ đức tin phải là một dụng công
diễn ra trong một quá trình lâu dài, bền bỉ, thánh thiện. Phải
thổi được cái hồn là đức tin, là cầu nguyện vào trong kịch bản ấy.
Bằng không, LHDH đơn thuần chỉ dừng lại ở sàn diễn mua vui cho
khách hiếu kỳ.
Nghĩ và viết đến đây, tự
nhiên tôi liên tưởng tới ca trù, quan họ, hát xẩm xoan, sử thi Tây
nguyên và đặc biệt nhã nhạc cung đình Huế, một loại hình biểu diễn
nghệ thuật vừa được (11-20030) UNESCO công nhận là “Di sản văn hóa
phi vật thể truyền khẩu” của toàn thể nhân loại. Phục hồi và
phát huy kịch bản LHDH cho xứng tầm vóc của nó – từ truyền thống
đến hiện đại – biết đâu chẳng là việc đáng quan tâm để đầu tư và
chăm chút, dưỡng nuôi? Tháng
Hoa Mẹ
Tác giả:
Francis Assisi Lê Đình Bảng
|