* Để nghe trên Youtube:
https://youtu.be/MXcbezQ6mfI
- Trang Chủ của
kênh:
https://youtube.com/@loichualaanhsang
- Quý vị có nhu
cầu nhận bài suy niệm hàng tuần qua email, xin liên lạc trực tiếp với:
Lm Giuse
Vũ Thái Hòa: vuthaihoa2@gmail.com
Chúa nhật III Mùa Chay – Năm A
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan (4,5-42)
Khi
ấy, Chúa Giêsu tới một thành gọi là Sykar thuộc xứ Samaria, gần phần đất Giacóp
đã cho con là Giuse, ở đó có giếng của Giacóp. Chúa Giêsu đi đường mệt, nên
ngồi nghỉ trên miệng giếng, lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu.
Một
người đàn bà xứ Samaria đến xách nước, Chúa Giêsu bảo: "Xin bà cho tôi
uống nước" (lúc ấy, các môn đệ đã vào thành mua thức ăn). Người đàn bà Samaria
thưa lại: "Sao thế! Ông là người Do-thái mà lại xin nước uống với tôi là
người xứ Samaria?" (Vì người Do-thái không giao thiệp gì với người Sa-maria).
Chúa
Giêsu đáp: "Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa ban và ai là người đang nói
với bà: "Xin cho tôi uống nước", thì chắc bà sẽ xin Người, và Người
sẽ cho bà nước hằng sống".
Người
đàn bà nói: "Thưa Ngài, Ngài không có gì để múc, mà giếng thì sâu, vậy
Ngài lấy đâu ra nước? Phải chăng Ngài trọng hơn tổ phụ Giacóp chúng tôi, người
đã cho chúng tôi giếng này và chính người đã uống nước giếng này cũng như các
con cái và đoàn súc vật của người?"
Chúa
Giêsu trả lời: "Ai uống nước giếng này sẽ còn khát, nhưng ai uống nước Ta
sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa, vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ
trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời". Người đàn bà thưa:
"Thưa Ngài, xin cho tôi nước đó để tôi chẳng còn khát và khỏi phải đến đây
xách nước nữa". Chúa Giêsu bảo: "Bà hãy đi gọi chồng bà rồi trở lại
đây". Người đàn bà đáp: "Tôi không có chồng". Chúa Giêsu nói
tiếp: "Bà nói "tôi không có chồng" là phải, vì bà có năm đời
chồng rồi, và người đàn ông đang chung sống với bà bây giờ không phải là chồng
bà, bà đã nói đúng đó".
Người
đàn bà nói: "Thưa Ngài, tôi thấy rõ Ngài là một tiên tri. Cha ông chúng
tôi đã thờ trên núi này, còn các ông, các ông lại bảo: phải thờ ở
Giêrusalem".
Chúa
Giêsu đáp: "Hỡi bà, hãy tin Ta, vì đã đến giờ người ta sẽ thờ phượng Chúa
Cha, không phải ở trên núi này hay ở Giêrusalem. Các người thờ Ðấng mà các
người không biết, còn chúng tôi thờ Ðấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ từ dân
Do-thái mà đến. Nhưng đã đến giờ, và chính là lúc này, những kẻ tôn thờ đích
thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý, đó chính là những người tôn
thờ mà Chúa Cha muốn. Thiên Chúa là tinh thần, và những kẻ tôn thờ Người, phải
tôn thờ trong tinh thần và trong chân lý".
Người
đàn bà thưa: "Tôi biết Ðấng Messia mà người ta gọi là Kitô sẽ đến, và khi
đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự". Chúa Giêsu bảo: "Ðấng ấy
chính là Ta, là người đang nói với bà đây".
Vừa
lúc đó các môn đệ về tới. Các ông ngạc nhiên thấy Ngài nói truyện với một người
đàn bà. Nhưng không ai dám hỏi: "Thầy hỏi bà ta điều gì, hoặc: tại sao
Thầy nói truyện với người đó?" Bấy giờ người đàn bà để vò xuống, chạy về
thành bảo mọi người rằng: "Mau hãy đến xem một ông đã nói với tôi tất cả
những gì tôi đã làm. Phải chăng ông đó là Ðấng Kitô?" Dân chúng tuôn nhau
ra khỏi thành và đến cùng Ngài, trong khi các môn đệ giục Ngài mà rằng:
"Xin mời Thầy ăn". Nhưng Ngài đáp: "Thầy có của ăn mà các con
không biết". Môn đệ hỏi nhau: "Ai đã mang đến cho Thầy ăn rồi
chăng?" Chúa Giêsu nói: "Của Thầy ăn là làm theo ý Ðấng đã sai Thầy
và chu toàn công việc Ngài. Các con chẳng nói: còn bốn tháng nữa mới đến mùa
gặt đó ư? Nhưng Thầy bảo các con hãy đưa mắt mà nhìn xem đồng lúa chín vàng đã
đến lúc gặt. Người gặt lãnh công và thu lúa thóc vào kho hằng sống, và như vậy
kẻ gieo người gặt đều vui mừng. Ðúng như câu tục ngữ: Kẻ này gieo, người kia
gặt. Thầy sai các con đi gặt những gì các con không vất vả làm ra; những kẻ
khác đã khó nhọc, còn các con thừa hưởng kết quả công lao của họ".
Một
số đông người Samaria ở thành đó đã tin Người vì lời người đàn bà làm chứng
rằng: "Ông ấy đã nói với tôi mọi việc tôi đã làm". Khi gặp Người, họ
xin Người ở lại với họ. Và Người đã ở lại đó hai ngày, và vì nghe chính lời
Người giảng dạy, số những kẻ tin ở Người thêm đông hẳn, họ bảo người đàn bà:
"Giờ đây, không phải vì những lời chị kể mà chúng tôi tin, nhưng chính
chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là Ðấng Cứu
Thế".
***
Bài
chia sẻ Tin Mừng của Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
Chúa thỏa mãn mọi
khát vọng
Mỗi người chúng ta ít nhiều đều đã có kinh nghiệm về
cơn khát. Khi khát ta cảm thấy khó chịu, khổ sở, nhưng sau khi được giải khát ta
cũng sẽ lại khát. Ngoài khát nước, đói ăn, chúng ta còn khao khát tình yêu, quyền
hành, giầu có, v.v... Khi đạt được điều gì rồi, ta lại muốn điều khác nữa.
Chính vì thế, hạnh phúc ở đời này luôn chỉ là tạm thời.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, người phụ nữ Sa-ma-ri
khát, không chỉ khát nước, mà khát cả tình yêu: chị đã có năm đời chồng rồi, và
người hiện đang sống với chị cũng không phải là chồng chị. Thế mà tại sao thánh
sử Gio-an lại nói về đời sống vợ chồng riêng tư của chị trong bài diễn văn về
nước hằng sống như thế? Dường như hai vấn đề không có liên quan gì với nhau cả.
Nếu nghiên cứu sâu hơn một chút về Kinh Thánh,
chúng ta sẽ biết rằng người Do-thái thời đó chỉ cho phép cưới tối đa là ba lần,
nên chuyện có năm đời chồng là không bao giờ có. Thật ra, năm người “chồng” ở
đây ám chỉ năm vị thần ngoại được đưa vào vùng Sa-ma-ri từ thế kỷ thứ 8 trước
Công Nguyên.
Theo lịch sử, Sa-ma-ri là thủ đô của vương
quyền phương Bắc bị rơi vào tay của người Át-sua vào năm 721 trước Công Nguyên.
Từ việc trộn lẫn giữa dân Mê-xô-pô-ta-mia và người Do-thái ở tại chỗ nảy sinh
ra dân Sa-ma-ri, tạp chủng và tôn thờ các ngẫu tượng. Giữa người Do-thái và người
Sa-ma-ri, mối giao lưu ngày càng tồi tệ, nhất là sau thời lưu đầy. Vào thế kỷ thứ
4 trước Công Nguyên, người Sa-ma-ri xây một đền thờ trên núi Ga-ri-dim, đối nghịch
với đền thờ Giê-ru-sa-lem. Từ lúc đó có sự ly giáo. Vào thời Ðức Giêsu, người Do-thái khinh bỉ người Sa-ma-ri, coi họ
là một dân hỗn tạp về chủng tộc, rối đạo và ly giáo, là những người không thể
giao du được. Chính vì thế, người phụ nữ Sa-ma-ri ngạc nhiên khi Chúa Giêsu ngỏ
lời với chị, cũng như các môn đệ ngạc nhiên khi thấy Thầy mình nói chuyện với một
phụ nữ Sa-ma-ri.
Khi Chúa Giêsu trả lời với chị ta: “Chị nói: 'Tôi không có chồng' là phải, vì chị
đã có năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng
chị. Chị đã nói đúng.” Người muốn nói với chị ấy rằng chị và người Sa-ma-ri
đã thờ năm thần ngoại trên núi Ga-ri-dim, và vị thần mà họ đang tôn thờ không là
phải thần đích thật. Chúng ta cũng đừng quên rằng trong Kinh Thánh, ngôn từ ngoại
tình thường được dùng để diễn tả sự bất trung đối với Chúa.
Câu chuyện người
phụ nữ Sa-ma-ri cũng là câu chuyện của những người đang vất vả tìm kiếm Chúa.
Họ nhận ra chính họ qua người phụ nữ này. Khi chúng ta nghe chị ấy nói: “Tôi không có chồng”, ngụ ý: “Tôi không
có Chúa”, chúng ta nghe những lời than vãn, tiếng kêu la của biết bao người: “Chúa
ở đâu? Tôi cảm thấy cô đơn và khốn khổ. Không ai làm cho đời sống tôi có ý nghĩa
cả!”
Như dân Do-thái xưa,
có những lúc chúng ta thiếu đức tin và đổ lỗi, buộc tội Chúa về những điều bất
hạnh: “Có Ðức Chúa ở giữa chúng ta hay
không?”, như chúng ta nghe trong bài đọc I. Thật ra Chúa luôn ở với họ trong
sa mạc, nhưng họ không tin và không nhận ra.
Chúa Giêsu ngồi
bên bờ giếng, nhưng phụ nữ Sa-ma-ri không nhận ra Người. Người bảo chị ấy: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước
tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một
mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” Mạch nước vọt lên là gì thế?
Ðó là Thiên Chúa, Thiên Chúa đích thật. Nếu ai gặp Chúa hoặc Ðức Kitô, người đó
sẽ có được nước ban sự sống. Nhưng làm thế nào để gặp Chúa trong sự thật? Chúng
ta vẫn thường đến nhà thờ cầu nguyện, dâng thánh lễ, v.v... nhưng có
thể chúng ta không gặp được Chúa, là do chúng ta tham dự thánh lễ chỉ vì thói quen
hay vì luật buộc.
Thiên Chúa là
tình yêu, và chỉ những ai yêu thương mới có thể gặp Chúa trong sự thật. Thánh
Gio-an đã nói: “Phàm ai yêu thương, thì
đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương,
thì không biết Thiên Chúa, vì Chúa là tình yêu.” (2 Ga 4,7b-8). Ðộng từ “biết”
ở đây có nghĩa là “gặp”. Nơi mà chúng ta có thể gặp Chúa dễ dàng, đó là trong
tâm hồn chúng ta. Nếu Người ở trong tâm hồn chúng ta, chúng ta cũng có thể gặp
Người trong thánh lễ và trong các bí tích khác, trong các biến cố của cuộc đời
và trong anh chị em của chúng ta.
Mùa Chay kéo dài
40 ngày là cơ hội thuận tiện để mỗi người chúng ta nhận ra những cơn khát và đói
đang ám ảnh và điều khiển chúng ta làm chúng ta mất tự do. Mùa Chay cũng là dịp
để nhận ra rằng chỉ có Chúa mới thỏa mãn những khát
vọng sâu thẳm nhất của con người.