6 – Đức Thánh Cha nêu lên một điều thú vị trong thư thứ hai Tông Đồ
Phaolô viết cho tín hữu Corintô, đấy là Ngài không muốn bắt ép các Kitô hữu phải
làm việc bác ái, nhưng việc người tín hữu nhiệt tâm trong các hoạt động bác ái
của mình “là để “kiểm chứng sự chân thành” về tình yêu của họ trong việc quan tâm và
lo lắng cho người nghèo”…Nghĩa là việc chung tay để giúp đỡ người nghèo nơi
những người tin và theo Chúa phải được thực hiện trong tinh thần là “dấu chỉ như Chúa Giêsu đã làm” – Người vốn
là con Thiên Chúa, nhưng “ đã muốn tự làm
cho mình nên nghèo khó”: một sự quảng đại làm nền cho công cuộc bác ái của
con cái Thiên Chúa…
Và Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta sống tinh thần “tự hủy” ấy trong việc thực
hành Lời Chúa khi để cho lòng mình đồng cảm với anh chị em mình trong hoàn cảnh
khó khăn của họ…và để cho ánh mắt, cho nụ cười kèm với những hoạt động yêu thương
chia sẻ mỗi ngày với anh chị em nghèo khổ cả tinh thần lẫn vật chất quanh ta…Đức
Thánh Cha nhắc lại lời dạy của thánh Giacôbê Tông Đồ về phong cách sống bác ái
phải có : “Anh em hãy đem Lời dạy của
Chúa ra mà thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình. Thật vậy, ai lắng
nghe Lời Chúa mà không thực hành…thì giống như người soi gương thấy khuôn mặt tự
nhiên của mình. Người ấy soi gương rồi đi, và quên ngay không nhớ mặt mình như
thế nào. Ai thiết tha và trung thành tuân giữ luật trọn hảo – luật mang lại tự
do, ai thi hành luật Chúa chứ không nghe qua rồi bỏ, thì sẽ tìm được hạnh phúc
trong mọi việc mình làm” (Gc 1,22 – 25)…
7 – Trong số 7 này, Đức Thánh Cha nêu lên một số nguyên tắc phải có
trong việc quan tâm đến anh chị em nghèo khó bên cạnh chúng ta :
- “trước người nghèo thì không cần
sự hùng biện, nhưng là xắn tay áo lên
và thực hành đức tin (nghĩa là
thực hiện Lời Chúa) bằng sự dấn thân trực tiếp, không thể ủy thác cho ai”;
- giữa chúng ta – những người tin – do “quá gắn bó với tiền của, sa lầy vào việc sử dụng sai trái tài sản và của
cải”…đưa đến tình trạng sống “một đức
tin yếu ớt và một niềm hy vọng uể oải và thiển cận”…Nói trắng ra là khá nhiều
người tin – mặc dù được hưởng muôn vàn ân huệ của Thiên Chúa – nhưng vì tham vọng
và bản tính gom góp…nên không mấy nhiệt tình trong việc quan tâm đến anh chị em
minh;
- tiền bạc không thể là mục đích chính và sự gắn bó thái quá với
tiền của “ngăn cản cái nhìn thực tế vào
cuộc sống hằng ngày và làm mờ đi khả năng nhìn thấy, không cho chúng ta nhìn thấy
nhu cầu của anh chị em mình”;
- không để cho bản thân “bị mê hoặc bởi thần tượng của cải”, bởi vì
điều ấy sẽ đưa đến một kết cục tội nghiệp là chính mình bị “trói buộc vào một viễn tượng về cuộc sống
phù du và sa ngã”…
Cho nên – Đức Thánh Cha nhấn mạnh – là không đến với người anh chị em
nghèo khó quanh chúng ta bằng “não trạng
trợ cấp”, nhưng là “sự dấn thân để không một ai thiếu thốn những
điều thiết yếu”… Và quan trọng hơn cả là “sự quan tâm chân thành và quảng đại cho phép chúng ta đến với một người
nghèo như đến với một người anh em
để…chính bản thân tôi được cứu thoát khỏi vòng
xoáy mà tôi bị rơi vào”… “Vòng xoáy” ấy có thể là “lời bao biện thường nghe thấy trong giới học
thuật, doanh nghiệp hay chuyên môn, thậm chí cả hàng giáo sĩ”…cho rằng mình
“không thể gần gũi người nghèo vì nếp sống
của mình đòi hỏi phải chú ý tới những lãnh vực khác” (Tông huấn Niềm Vui
Tin Mừng, 201)…Tệ hơn nữa là việc dùng từ thiện nhằm “đánh bóng” hoặc “quảng cáo”
vô cùng trơ trẽn – điều mà truyền thông xã hội thời gian vừa qua khá là rộn
ràng…”Điều cấp bách là phải tìm ra những cách thức mới có thể vượt
lên trên khuôn khổ của những chính sách xã hội được xem như “một chính sách vì người nghèo”, nhưng không bao giờ là
chính sách với người nghèo và của người nghèo, lại càng không nằm
trong dự án liên kết mọi người” (Tông huấn Mọi người là anh em, 169)…Điều
phải hiểu và phải sống, đấy là lời thánh
Phaolô dạy tín hữu Côrintô trong lá thư thứ 2 : “Vấn đề không phải là bắt anh em phải sống eo hẹp…để người khác bới
nghèo khó…Điều cần thiết là phải có sự
đồng đều” (2Cr 8 , 13)…Nghĩa là chính ý thức của bản thân về đức
công bình và tinh thần chia sớt buộc mỗi người tin nhìn lại mình, giảm bới những
hoang phí và trợ giúp anh chị em quanh mình…
8 – Trong số 8 này, Đức Thánh Cha khai triển tư tưởng của thánh Phaolô để
xin chúng ta sống đúng với “ân sủng” của Thiên Chúa : “Của cải đích thực không nằm ở việc “tích lũy
kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư hoại và kẻ trộm đột nhập đánh cắp ” (Mt
6,19)…nhưng đúng hơn , là nơi tình
yêu thương nhau khiến chúng
ta mang gánh nặng cho nhau để không ai bị bỏ rơi hay loại trừ”…Qua
kinh nghiệm thực tế về thời gian dịch bệnh cũng như cuộc chiến phi nghĩa “cá lớn nuốt cá bé” mang lại cho
chúng ta một trải nghiệm sâu sắc và một bài học đậm đà, ấy là “chúng ta không ở trên trái đất này để tồn tại,
nhưng để mọi người được sống một cách xứng
đáng và hạnh phúc”…Đức Thánh Cha – qua việc nhập thể - nhập thế - tử nạn
– sống lại của Đức Giêsu Kitô - dạy chúng
ta rằng : “có cái nghèo hạ nhục và giết chết, nhưng cũng có cái nghèo khác,
của Người (Đức Giêsu Kitô), giải
thoát và làm cho chúng ta hạnh phúc”…
“Cái nghèo hạ nhục và giết chết”…là do “bất công, bóc lột, bạo lực và phân phối tài nguyên không công bằng”
– “sự nghèo đói tuyệt vọng, không có
tương lai, bởi vì nó bị áp đặt bởi thứ văn hóa vứt bỏ không mang lại triển vọng
hoặc lối thoát”…Một diễn tả cụ thể và rất ý nghĩa của Đức Thánh Cha : “Khi quy luật duy nhất là phép tính lợi nhuận
mỗi cuối ngày…thì không gì có thể giữ chúng ta khỏi nhìn thấy người khác chỉ
đơn giản là những đối tượng bị bóc lột
– nghĩa là những phương tiện”…Và
từ cái nhìn thuần lợi nhuận đó sẽ “không
còn nữa tiền lương phải lẽ, giờ làm việc thích hợp, và các hình thức nô lệ mới
được tạo ra: những người không còn chọn lựa nào khác phải chấp nhận sự bất công
độc hại này để lượm lặt những gì tối thiểu cho cuộc sống !”…
“Cái nghèo giải thoát và làm cho con người hạnh phúc”…là “cái nghèo có được từ kết quả của một quyết định có trách nhiệm để gỡ bỏ gánh nặng và
sự tập trung vào những điều thiết yếu”…Nghĩa là cái nghèo “tự hủy”
theo gương Chúa Giêsu…để kiếm và tìm phương cách tiếp cận anh chị em thốn thiếu
quanh mình và tạo điều kiện để anh chị em chúng ta sống đúng vơi phẩm giá con
người…vốn là thụ tạo được Thiên Chúa yêu thương và đặt để giữa và bên cạnh chúng ta…
Đức Thánh Cha nói về “cảm giác
không hài lòng”của khá nhiều anh chị em chúng ta, “bởi vì họ cảm thấy một điều gì đó rất quan trọng đang thiếu trong cuộc
sống của họ và đi tìm kiếm nó như như một sự lang thang không mục đích”…Điều
họ cảm thấy thiếu và lang thang kiếm tìm ấy chính là “những người nhỏ bé, yếu thế, nghèo khó” quanh mình…Đức Thánh Cha khẳng
định: “Gặp gỡ những người nghèo cho phép
chúng ta chấm dứt những lo lắng và sợ hãi trống rỗng, để đi đến với điều gì thực
sự quan trọng trong cuộc sống, đấy là kho báu không ai có thể cướp được khỏi
chúng ta: tình yêu đích thực và nhưng không ( dĩ nhiên là theo gương của Đức
Giêsu – Đấng tự hủy)…Cuối cùng, Đức Thánh Cha nêu lên tư tưởng của vị thánh
giáo phụ và tiến sĩ Hội Thánh Gioan Kim Khẩu nhằm lên án cách hành xử của những
Kitô hữu đối với anh chị em nghèo quanh mình : “ Nếu bạn không thể tin rằng người nghèo khó có thể làm cho bạn nên giàu
có…thì xin hãy nghĩ đến Chúa của bạn và hãy thôi nghi ngờ điều này…Nếu Người
không nghèo…thì bạn sẽ không thể giàu…và đây là một điều lạ lùng : đấy là cái
nghèo lại trở nên nguồn của sự giàu có dồi dào…Những điều thánh Phaolô muốn nói
về “sự giàu có” là sự hiểu biết về đạo đức,
sự thanh tầy khỏi tội lỗi, sự công chính, sự thánh hóa và hàng ngàn điều
tốt lành khác đã được ban cho chúng ta bây giờ và mãi mãi. Chúng ta có được
tất cả những điều này là nhờ vào sự nghèo khó” (Bài giảng về Thư thứ hai gửi
tín hữu Côrintô 17,1)…
9 - Ở số 9 của Sứ điệp – trươc khi kế thúc bằng việc đưa ra một chứng cứ
sống, Đức Thánh Cha tiếp tục khai triển chủ đề “Chúa Giê-su Kitô đã tự ý trở nên
nghèo khó vì anh em” – một nghịch lý lớn của đời sống đức tin - mà
thánh Phaolô nói đến trong Thứ thứ hai gửi tín hữu Côrintô của Ngài, Đức Thánh
Cha cho rằng giáo huấn ấy của thánh Phaolô – giáo huấn về “sự nghèo khó của Đức Kitô làm cho
chúng ta nên giàu có”, giáo huấn “ đã
và vẫn được Giáo Hội loan truyền và làm chứng qua nhiều thế kỷ” ấy…thì là “bởi
vì Thiên Chúa – nơi Con của Người, Đức Giêsu Kitô – đã chọn và đi con đường này”
: con đường “Đức Ki-tô tự làm cho mình nên nghèo khó ví chúng ta”…và nhờ đó, “chúng ta được chiếu sáng và biến
đổi, và nhận được một giá trị mà thế giới không thể hiểu được và không thể ban
tặng” : - “Vì yêu, Người trút bỏ vinh
quang và mặc lấy thân phận con người”; - “ Vì yêu, Người trở nên một người tôi tớ, vâng phục đến nỗi bằng lòng chịu
chết, chết trên cây thập tự (x. Pl 2, 6-8);
“Vì yêu, Người đã trở nên “Bánh
Ban Sự Sống” (Ga 6,35)…để không ai
thiếu thốn những gì thiết yếu và có thể tìm thấy lương thực nuôi dưỡng cho sự sống
đời đời”…
Và Đức Thánh Cha quả quyết : “Nếu
chúng ta muốn sự sống chiến thắng sự chết, nhân phẩm được cứu khỏi bất công,
thì chúng ta cần bước đi trên con đường của Chúa Giê-su nghèo khó, chia sẻ cuộc
sống vì tình yêu, bẻ tấm bánh cuộc đời hằng ngày với anh chị em rốt hết, những
người thiếu thốn những gì thiết yếu”…Và Đức Thánh Cha cho rằng : “Đây
là cách tạo nên sự bình đẳng, giải phóng người nghèo khỏi sự khốn cùng và người
giàu khỏi sự phù phiếm, giải phóng cả hai khỏi sự tuyệt vọng”…
10 – Đức Thánh Cha nêu lên bằng chứng sống về nghịch lý tuyệt với này nơi cuộc sống của Đức Giêsu Kitô mà Anh Charles
de Foucauld – người vừa được Đức Thánh Cha nâng lên bậc hiển thánh ngày 15/5 vừa
qua – đã sống và chết cho chân lý “tự hủy” cho và vì anh chị em mình…Người viết xin phép để đưa
ra vài ba bằng chứng sống khác mà người viết có dịp để ghi lại từ chứng cứ của
một người anh em ngoài Công Giáo:
- “ Đầu năm1980, tôi bò đến bờ biển
Thái Lan…nhưng bầm dập, te tua, tơi tả cả xác lẫn hồn…Nơi đây, dưới một mái lều
tranh (được dùng như Nhà Thờ tạm) trong trại tị nạn Songkhla,tôi gặp Cha Joe
Devlin – một tu sĩ Dòng Tên…Dù không có nhu cầu học tiếng Anh ở trình độ vỡ
lòng, tôi vẫn ngồi yên lặng nghe vị Linh Mục này giảng dạy rất nhiều buổi chiều
– từ tháng này sang tháng nọ - chỉ vì giọng nói hiền hòa, ánh mắt nhân từ, và
những cử chỉ bao dung thân ái của ông...”;
- “Cuối năm 1980, ở trại tị nạn
Galang (Nam Dương), tôi lại gặp được một vị tu sĩ Dòng tên khác là Cha Gildo
Dominici – tên Việt là Đỗ Minh Trí…Có thể nói mà không sợ quá lời là trong suốt
thập niên 1980, đời sống vật chất lẫn tinh thần của nhiều người Việt tị nạn tại
nơi đây (cũng như tại trại Bataan, Phi Luật Tân) tương đối khấm khá là nhờ vào
sự tận tụy của cá nhân ông…
Đến cuối đời, tôi lại còn được biết thêm
nhiều vị tu sĩ can trường và khả kính khác nữa. Họ không chỉ hy sinh, cống hiến
mà còn sẵn sàng chấp nhận cái chết một cách thung dung với đức tin mãnh liệt
vào tôn giáo của mình…
-Trong hồi ký Thung Lũng Tử Thần của nhà văn Phan Nhật Nam xuất bản năm
2014, ông có dành nhiều trang để viết về Linh Mục Nguyễn Văn Vàng – Tu Sĩ Dòng
Chúa Cứu Thế…Ông kể rằng:
“Tôi bị cắt khẩu phần ăn xuống chỉ
còn một nửa so với thành phần lao động bên ngoài – nghĩa là chỉ còn 150gr cho mỗi
bữa bao gồm 5 lát khoai mì khô mốc và một muỗng cơm, tất cả đẫm nước muối và được
phát nửa ca nước mỗi ngày…
Ăn mặn mà uống nước ít, người rất dễ bị
phù sẽ ảnh hưởng tới thận…Nếu muốn được ăn những lát sắn khô…thì phải dùng ít
nhất nửa phần nước để rửa bớt độ mặn của nước muối được chan vào cơm và khoai
mì…
Thấy tình trạng của tôi có vẻ như kiệt sức…nên Linh Mục Nguyễn
Văn Vàng – người tù cùng chung xà lim với tôi ra tay giải cứu…Ngài nói : “Anh
không thể nhịn ăn mãi như thế…Nếu Chúa che chở cho mình…thì dù có bị phù cũng
không chết… Bố sẽ hy sinh nửa phần nước để anh rửa khoai mì cho bớt mặn” –
Alpha khước từ : “ Bố (danh xưng các tù miền Nam dùng để xưng hô với các tu sĩ của các Đạo
giáo) lớn tuổi, sức chịu đựng yếu rồi, nhịn
khát như con không được đâu…” Ông cười : Sao biết không được, đã thử đâu mà biết
không được!”…
Trong một lần cả hai cùng được đi tắm…thì
được một người cho hai bi thuốc lào…Về lại xà lim, cả hai đều thất vọng : lửa
đâu mà hút…Cha Vàng đưa ra ý kiến lấy lửa bằng phương pháp thời kỳ đố đá…Ông giảng
giải : Nền văn minh ngày nay đến từ việc phát minh ra lửa…Lửa chế ngự đời sống
con người khi họ thoát ra khỏi thời kỳ ăn lông ở lỗ…Con người thời kỳ đồ đá đã
biết dùng đá chọi vào nhau cho đến khi xẹt lửa…Alpha tạo kế xin nhà bếp một
thanh tre để cạo lưỡi…Và Linh Mục Vàng xé manh áo làm con cúi chuẩn bị tạo nên lửa để hút thuốc vào dịp trọng đại…Noel
năm 1984, Alpha và Cha Vàng thay phiên nhau kéo thanh tre xuyên qua lỗ chiếc
dép lốp…từ 9 giớ sáng cho đến hơn 11giờ…thì “phép lạ” xảy đến…Đầu con cúi bắt đầu
ngún và có khói, có nghĩa là bột tre nóng quá độ đã khiến cho lớp bông nhẹ trên
con cúi bén lửa…Một lát sau khi thấy xuất hiện những đốm hồng, Cha Vàng thổi
nhè nhẹ, vết lửa lan ra…
Đúng vào tối 24 – 12 – 1984, trước khi Cha
Vàng cử hành Thánh Lễ nửa đêm trong xà lim số 6, hai người đã hút mỗi người một
điếu thuốc lào…Hút bằng một miếng giấy cuộn tròn như loa kèn và miệng ngậm một
búng nước…Vào đúng lúc nửa đêm, cả hai đều cảm nhận được Thánh Lễ Giáng Sinh thực
sự đang trở lại thung lũng Xuân Phước qua tiếng chuông của một Nhà Thờ dường
như ở cách Nhà Giam xa lắm vọng về trong
đêm giá lạnh u tịch…”
Người viết rất thích cách lý giải nhẹ nhàng và rất dễ thương về một vấn
đề khá tế nhị của Cha Vàng…Khi anh bạn tù muốn từ chối nửa phần nước mỗi ngày của
ngài…và hóm hỉnh chọc ngài nhân câu nói : Sao
biết không được, đã thử đâu mà biết không được ! Anh đùa cho bớt căng thẳng
: Thế Bố đã “thử” chưa mà đi giảng Đạo có
lúc Bố nói về hạnh phúc lứa đôi ?... Cả
hai chúng tôi đều cười vang…Rồi ngài nhẹ nhàng : “Để Bố nói cho anh nghe : Bố
là Linh Mục thì cũng là…người, con tim cũng rung động như mọi người khác, nhiều
lúc Bố cũng muốn “thử”…Những lúc như thế mình phải tranh đấu với chính bản thân
mình ghê lắm để đừng vượt rào…Điều này cũng cần phải can đảm lắm mới làm được…Tín đồ kính trọng người tu hành là kính trọng
sự can đảm ấy, kính trọng sự vượt qua để phụng sự, chứ nếu giống như “thường
tình” thì nói gì nữa !”…
Và Đức Thánh Cha kết thúc Sứ điệp:
“Ước gì Ngày Thề Giới Người Nghèo
lần thứ VI này trờ thành một cơ hội của
ân sủng…giúp cá nhân và cộng đoàn kiểm thảo lương tâm và tự hỏi xem sự nghèo
khó của Chúa Giêsu Kitô cá phải là người bạn đồng hành trung thành của chúng ta
trong cuộc sống hay không”…
Lm Giuse Ngô Mạnh Điệp