Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Văn Hóa Xã Hội
TRIẾT LÝ GIÁO DỤC

  

Chuyên mục
“Huế - Sàigòn – Hànội”:

Tiến sĩ Trần Xuân Thời

Kính mời theo dõi video tại đây:

https://bit.ly/3lDPONL

 

 

Sự học cần thiết cho cả đời sống tinh thần lẫn đời sống vật chất. Mục đích của giáo dục chẳng những để đào luyện con người trở nên giỏi giang về kỹ năng (skill) mà còn tạo cho con người trở nên cao thượng hơn. Hình tội học (criminology) chứng minh là đa số những người liên hệ đến tội phạm có trình độ văn hoá kém, hoặc thuở nhỏ không được giáo dục đúng cách. Vì thế người ta thường nói mở thêm một ngôi trường sẽ giúp đóng cửa một nhà tù. “He who opens a school door, closes a prison” (Victor Hugo).

Những đặc điểm của người có học vấn:

(1)- Ít lo âu, vì người có văn hóa có thể tiên đoán được sự việc xảy ra và biết cách ứng phó. “Khi vui thì hãy vui nhưng đừng tự kiêu, khi tai họa đến thì phải lo nghĩ mà chớ buồn phiền”. Làm người phải biết tỉnh trí, đừng kinh, mới dễ dàng mưu sinh thoát hiểm. Nhân vô viễn lự, tắc hữu cận ưu”. Người mà không biết lo xa, tai họa ắt sẽ gần kề!



(2)- Thứ đến, người có học thường tránh được lầm lỗi, vì dễ nhận biết được phải, trái trong các quyết định dân sự hay phương cách bày binh bố trận ngoài chiến trường. Đặc điểm của xã hội dân chủ là khó có sự đồng nhất về tư tưởng vì tôn trọng đa nguyên, bá nhân, bá tánh. Tuy vậy, mặc dù phải, trái đôi khi không do chính mình quyết đoán mà được xét định theo tiêu chuẩn phổ quát hầu như được mọi tổ chức chính trị, tôn giáo, xã hội công nhận để tránh sự hỗn loạn. Đó là nguyên tắc đa số (majority rule), còn gọi là nguyên tắc tôn trọng ý chí chung. Ý chí chung (the will of the majority) được áp dụng để phân định khi có sự bất đồng ý kiến xảy ra. Quyết định chọn các vị lãnh tụ trong các hội đoàn, tổng thống trong các quốc gia tự do đều được tuyển chọn theo nguyên tắc đa số. Trong lĩnh vực tôn giáo như Đức Giáo Hoàng cũng được chọn theo nguyên tắc đa số. Vấn đề đúng, sai, do đa số quyết định. “What is right or wrong is being determined by the will of the majority” (John Locke), hoặc theo mẫu mực được truyền bá từ đời này sang đời khác qua phong tục, tập quán hay luật lệ chung của xã hội hoặc lấy quyết định giữa chốn đình trung như Hội Nghị Diên Hồng. Trên thế gian, chỉ có các nước độc tài lạc hậu, không áp dụng nguyên tắc nhân dân tấn phong qua các cuộc bầu cử tự do…

(3)- Thứ ba là người có học ít khi sợ sệt. “Úy thủ, uý vĩ", sợ đầu, sợ đuôi, làm gì cũng sợ!... Sợ sệt thường do sự thiếu hiểu biết tạo nên. Những nhà độc tài sợ không khuất phục được quần chúng nên thường áp dụng biện pháp khủng bố. Sợ vì không biết cách giải quyết vấn đề hay sợ bị chống đối vì không tiên đoán trước được phản ứng của người khác.

Muốn sự phán đoán được công minh, một số tiêu chuẩn cần được lưu ý:

1) Vô ý: Xét việc, đừng lấy ý riêng, tư dục, mà phải xét theo lẽ phải hay lẽ thường tình (common sense). 

2) Vô tất: Là không nên quyết đoán là việc đó làm được hay không làm được mà phải tạo cơ hội để thực hiện mới biết dễ hay khó. Không nên chủ quan bác bỏ những ý kiến hữu ích của tha nhân theo ý nghĩ thiển cận của mình mà phải biết chấp nhận thử thách.

3) Vô cố: Vô cố tức là không cố chấp, phải biết nhìn xa hiểu rộng,  theo lẽ phải mà thi hành

4) Vô ngã: Vô ngã là quên mình, phải chí công vô tư để phục vụ nhân quần xã hội, hành sự theo lẽ phải, chứ không chỉ làm những việc có lợi cho cá nhân mình. (Luận Ngữ).

“Nếu phải cân nhắc giữa công ích và tư lợi, quyền lợi cá nhân và quyền lợi của quốc gia, dân tộc thì kẻ trượng phu phải hy sinh quyền lợi cá nhân cho đại nghĩa.” (Khuất Nguyên).

Sách Luận ngữ có ghi sáu điều tai hại của sự thất học:

1) Người ham điều nhân mà không học thì

bị cái hại là ngu muội.

2) Người ham đức trí mà không chịu học thì

bị cái hại là phóng đãng.

3) Người trọng chữ tín mà không chịu học thì

bị cái hại là dễ bị lường gạt.

4) Người thích sự ngay thẳng mà không chịu học thì

hoá ra nóng nảy.

5)  Người dũng cảm mà không chịu học thì dễ

biến thành phản loạn.

6) Người cương quyết mà không chịu học thì hoá ra cường bạo.

Sự học nói chung không phải chỉ là đọc sách vở mà còn học hỏi qua công việc làm, thu thập kinh nghiệm, giải quyết mọi vấn đề liên quan đến đời sống hằng ngày.

1) Muốn học,  trước tiên phải biết phục thiện, biết làm theo điều phải, không tự ái. “Bất sỉ hạ vấn”. Hỏi người nhỏ tuổi hơn mình hoặc người làm việc dưới quyền mình vẫn không cảm thấy hổ thẹn.

2) Phải có thiện chí, tìm hiểu và hỏi han. Khổng Tử khuyên môn sinh “Người nào không hỏi phải làm sao thì ta cũng chẳng có cách nào chỉ bảo cho họ được. Kẻ nào không hăng hái muốn hiểu thì ta cũng không thể giúp cho hiểu được. Kẻ nào không tỏ ý muốn hiểu biết thì ta cũng không thể giúp cho họ phát triển được. Ta vén lên một góc mà chẳng tự tìm được ba góc kia thì ta không giảng thêm nữa”.

3) Thượng Đế tạo nên nhân loại như những cây gỗ quý. Nếu không biết học hỏi thì gỗ quý sẽ biến thành gỗ mục. “Gỗ mục thì không chạm khắc lên được, cũng như vách bằng đất bùn thì không tô vẽ lên được”. Nói khác đi, trí tuệ là viên ngọc, nhưng ngọc bất trác sẽ bất thành khí.

Phương pháp học hỏi hiệu nghiệm:

1) “Nên nghe cho nhiều, điều gì còn nghi ngờ thì để đó, tìm hiểu thêm, để tránh cái hại là nói sai sẽ bị thiên hạ chê cười. Điều gì biết rõ ràng chắc chắn thì nên nói, nhưng cũng nên nói một cách ôn tồn”.

2) “Nên thấy cho nhiều, những gì thấy chưa được rõ thì để đó đừng làm. Còn những gì biết rõ thì cũng nên làm một cách ôn tồn, cẩn thận, như vậy sẽ ít phải ân hận.

3) Học hỏi được những điều hay lẽ phải cũng cần được áp dụng vào đời sống hằng ngày hay truyền thụ cho người khác. Nếu không, kiến thức sẽ trở thành mai một.  Anh ngữ cũng có câu. “The knowledge or wisdom he has in his head is of no use to anyone unless he can communicate it to others”. Có kiến thức mà không áp dụng được vào đời sống hoặc không truyền thông được cho người khác thì kiến thức đó sẽ trở thành vô dụng, chẳng khác nào ăn vào mà không tiêu hoá.

Ở đời có ba hạng thức giả:

1) Không ai dạy mà biết được đạo lý. Sinh nhi tri giả, thượng giả” là hạng siêu việt.

2)  Có đi học mới biết được. “Học nhi tri chí giả, thứ giả” là hạng khoa bảng thường tình.

3) Dốt mà chịu học hỏi. Khốn nhi học chi, hữu ký giả” là hạng có chí thì nên.

Ngoài ra những người không chịu học hỏi là hạng: “Cũng liều nhắm mắt đưa chân, thử xem con tạo xoay vần đến đâu”. “Khốn nhi bất học, ân tư vĩ hạ hỉ”.



Xã hội Tây Phương cũng thường phân loại:

1) Professionals with great mind talk about ideas. Chuyên viên giỏi thường nêu lên sáng kiến. 

2) Professionals with average mind talk about current events Chuyên viên trung bình thường bàn những sự việc đang xảy ra, và 

3) Professionals with small mind talk about people. Chuyên viên thường hay bàn về chuyện thế thái nhân tình.

Dù thuộc hạng nào chăng nữa, mỗi ngày mình nên xét ba điều: “Mình giúp ai việc gì, có giúp hết lòng không; giao du với bạn bè có giữ được sự trung tín không; mình có học hỏi thêm được điều gì mới mẻ trong ngày không”.

Diễn trình giáo dục là diễn trình thu nhận kiến thức, tinh luyện suy luận và phát triển sáng tạo.

Cách học của người Tây phương và người Á Đông có điểm khác nhau được lưu ý là: Á Đông học để lấy bằng cấp, “từ chương, trích cú” (Test- taking skill/ based education on memorization and constant testing), học thuộc lòng để thi test. Giáo dục Tây Phương chú tâm giúp sĩ tử biết suy tư, thông đạt, phát minh, áp dụng kiến thức vào đời sống để giải quyết thế sự (how to get their kids to communicate, to think, to solve problems).

Các nhà giáo dục giám định phương pháp giáo dục Đông Tây (International rankings) nhận định nền giáo dục Hoa Kỳ xếp hạng cao trên thế giới nhờ phương pháp giáo dục khích lệ học sinh, sinh viên suy tư, đối thoại với nhau và với thầy, học cách giải quyết vấn đề. Hoa Kỳ đã đầu tư vào nền giáo dục khoảng # 3% GDP hằng năm vào ngân sách giáo dục quốc gia. Tổng Sản lượng (Gross Domestic Product) của Hoa Kỳ năm 2018 là 20.50 ngàn tỷ (trillion).

Một nhà giáo dục Á Đông nhận xét: “When I went to college in the United States, I encountered a different world. While the American system is too lax on rigor and memorization, - whether in math or poetry- it is much better in developing the critical faculty of minds, which is what you need to succeed in life. Other educational systems teach you to take tests; the American system teaches you to think... That is why America produces so many entrepreneurs, inventors, and risk takers. It’s America, not Japan, not China that produces dozens of Nobel Prize Winners... America know how to use people to the fullest”.

Tạm dịch: “Vào đại học Mỹ, tôi bất chợt chứng kiến một thế giới hoàn toàn khác. Đang khi hệ thống đại học Mỹ quá lỏng lẻo về tính chính xác và khả năng học thuộc lòng, - dù là toán học hay thơ ca - thì việc phát triển khả năng phản biện của trí óc là điều bạn cần để thành công trong cuộc sống; điều này tốt hơn nhiều. Các hệ thống giáo dục khác dạy bạn làm các bài kiểm tra; hệ thống giáo dục của Mỹ dạy bạn tư duy... Đó là lý do tại sao nước Mỹ sản sinh ra rất nhiều doanh nhân, các nhà phát minh và những người dám mạo hiểm tạo nên một sự khác biệt. Chính Mỹ, không phải Nhật, không phải Tàu, đã sản sinh ra hàng tá người đoạt giải Nobel… Mỹ biết cách làm cho một người phát huy tối đa!”.

Đặc biệt nền giáo dục Hoa Kỳ khuyến khích học sinh, sinh viên thách thức kiến thức theo tập quán hay quy ước kể cả thách thức giới hữu trách trong các ngành sinh hoạt nhân sinh. “Most of all, America has a culture of learning that challenges conventional wisdom, even if it means challenging authority”. Có lẽ đó cũng là lý do trẻ em Tây Phương thường không hẳn nghe lời người lớn nói. “Children have never been very good at listening to their elders.” (James Baldwin).

Học sinh, sinh viên Tây Phương nghiên cứu các môn học qua sách giáo khoa được cập nhật hằng năm và đến lớp dành thì giờ nghe giảng bài, thảo luận và giải quyết vấn đề. Trong lúc đó, trong các trường học Á Đông, không có sách giáo khoa cấp phát hay bán cho học sinh, sinh viên. Học sinh, sinh viên đến lớp dùng hết thì giờ chép bài. không có thì giờ tranh luận, học sinh sợ thầy không dám đặt câu hỏi, lớp học thiếu sinh khí... Thầy thì lấy sách giáo khoa Tây phương dịch ra vài chương đọc cho sinh viên chép lại để học. Có khi sách giáo khoa, gồm 18 chương, dày 600 trang cho mỗi môn học, thầy chỉ dịch một vài chương để đọc cho sinh viên chép. Vì thế, kiến thức của sinh viên, thiếu đầu, hụt đuôi. Khi qua các nước Tây Phương, mặc dù có bằng cử nhân, cao học, tiến sĩ, nếu không cập nhật kiến thức hay tìm học thêm một nghề chuyên môn thì sinh kế khó tìm được ngành tương xứng.

Thu nhận kiến thức để lãnh nhận chứng chỉ, văn bằng, chỉ mới là giai đoạn đầu. Nếu mới đạt được giai đoạn này mà đã tự thỏa mãn thì chỉ mới đạt đến sự hiểu biết vòng ngoài, “cách vật trí tri”, nhưng chưa đạt đến trình độ thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc và bình thiên hạ.

Học để hiểu biết và giỏi giang hơn về một ngành chuyên môn là điều tốt. Nhưng nếu chỉ để mong được an nhàn, sống lâu, giàu bền, còn việc quốc gia, cộng đồng, xã hội, ái hữu không thèm nghĩ đến thì chưa đạt đến trình độ trí thức. Có lĩnh hội được nguyên lý của sự vật, sự viêc, thì nhận thức mới đúng đắn, ý nghĩ mới thành thực, tâm tư mới ngay thẳng, bản thân mới tu dưỡng để chỉnh đốn tốt gia đình, lãnh đạo tốt quốc gia và giữ cho thiên hạ được thái bình”

Vì thế, triết lý giáo dục nhân bản không dừng lại ở mức độ thu nhận kiến thức để trở thành chuyên viên mà còn tiến đến chủ đích làm cho con người trở nên cao thượng hơn. “Thượng vì đức, hạ vì dân” để làm gương cho hậu thế. Phối hợp đạo lý làm người và kiến thức để giúp đời là dấu chỉ của kẻ sĩ, như quan niệm của Nguyễn Công Trứ:

“Kinh luân khởi tâm thượng,

Binh giáp tàng hung trung.

Vũ trụ chi giai ngô phận sự.

Nam nhi đáo thử thị hào hùng.”

Phải, với tinh thần “Vũ trụ chi giai ngô phận sự” thì “Người chăn cừu xứ Tô Cách Lan và ông bộ trưởng, đều có công trạng đối với quốc gia.” Một người khoa bảng có văn bằng và một người mù chữ cũng có công trạng đối với tổ quốc, miễn là làm xong nhiệm vụ mà tổ quốc giao phó.

Năm 1843, Tướng Quân Nguyễn Công Trứ bị giáng chức làm linh thú ỡ Quảng Ngãi. Ông quan niệm “Khi làm tướng, tôi không lấy làm vinh, thì lúc làm lính có chi mà nhục”. Quan niệm này đúng với cương thường, đạo nghĩa. quyết tâm phục vụ chính nghĩa quốc gia, dân tộc, thể hiện thái độ “tâm” đã định và “tính” đã an. (Tri kỳ tâmtận kỳ tính).

“Miền hương đảng đã khen rằng hiếu nghị,

Đạo lập thân, phải giữ lấy cương thường”.

Triết lý  giáo dục nhân bản, khai phóng, quan niệm “Cái học khoa cử chỉ là manh áo bên ngoài, là con đường đi vào đạo sống”. Nếu không đạt được chính đạo, nghĩa là không phục vụ chân lý, chính nghĩa, quốc gia, dân tộc, thì khoa bảng chỉ có hiệu lực trang trí, chưa đạt đến trình độ trí thức. Trí thức (intellectual) thường được hiểu là người có tài cánđức độ,

Người ta thường nói: “Tri thức tôn giáo thường do mặc khải (revelation). Tri thức triết học do lý trí quan niệm mà lãnh hội. Tri thức khoa học do thực nghiệm”. Sự học tuy khó khăn, nhưng khi biết áp dụng kiến thức vào đời sống thì thành quả sẽ rất ngọt ngào, là phương cách đầu tư, thâu được nhiều lợi nhuận nhất “An investment in knowledge pays the best interests”, trong sứ mệnh tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.

"Học vấn là hành trình suốt cuộc đời, học nhanh hay chậm không quan trọng, miễn là đừng bỏ học”. Điều hay nhất của học vấn là không ai tước đoạt được kiến thức của mình. “The beautiful thing about learning is that no one can take it away from you” (B.B. King).

Triết lý hành động của “trí thức quân tử” là: “Nếu phải cân nhắc giữa tư lợi và công ích, kẻ trượng phu phải hy sinh tư lợi để phục vụ công ích”. Cho nên học và áp dụng kiến thức để làm việc nhân nghĩa, xây dựng nhân quần xã hội, quốc gia dân tộc thật là một nguồn vui vô tận. “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ”.

 Nền giáo dục của Việt Nam Cộng Hoà trước năm 1975 là nền giáo dục NHÂN BẢN (lấy con người làm gốc); DÂN TỘC (tôn trọng giá trị truyền thống dân tộc); và KHAI PHÓNG (mở rộng, không bảo thủ, tiếp nhận văn hoá, văn minh nhân bản thế giới). “Education is what remains after one has forgotten everything he learned in school- Văn hoá là những gì còn lại sau khi đã quên hết những gì đã thu nhận ở học đường” (Albert Einstein).

“Il n'y a que deux puissances au monde, le sabre et l'esprit: à la longue, le sabre est toujours vaincu par l’esprit” (There are only two powers in the world, saber and mind; at the end, saber is always defeated by mind). (Napoléon Bonaparte). “Nhân giả vô địch – trí tuệ thắng gươm giáo; tình thương thắng bạo tàn; dân chủ thắng độc tài”.

Nhân thế, dù có phần khác nhau về văn hoá chủng tộc, nhưng đều là tinh hoa Trời ban để quản trị vũ trụ, nên chúng ta có sứ mệnh: 

(1) phải trân trọng “Nghề nào cũng trọng cũng hay, đi buôn cũng qúy, đi cày cũng sang,” 

(2) quyết chí bảo toàn ơn Trời cho trọn vẹn.  

Các bậc thềm giáo dục từ gia đình đến học đường và trường đời là một đại học. “Đại học chi đạo, tại minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện”. Đại học làm cho đức tính của chúng ta thêm sáng suốt, để phục vụ nhân quần xã hội, nhằm đạt đến mức chí thiện.

 Bậc thềm nào cũng thần diệu cả -

“Tout seuil est une sacré chose”.

Trần Xuân Thời

Hẹn gặp lại

 

Tác giả:  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!