Chuyên mục:
TÔI TIN, CHÚNG TÔI TIN:
Phêrô Phạm Văn Trung, TGP Saigon
Kính mời theo dõi video tại đây:
https://bit.ly/2SDXZPi
Nền tảng nên thánh trong
đời sống vợ chồng cũng giống như trong đời sống thánh hiến.
Cặp đôi yêu nhau muốn cử hành lễ kết hôn
trong nhà thờ có nhận ra rằng khi lãnh nhận Bí tích Hôn phối họ được kêu gọi nên thánh
không?
Có lẽ họ sẽ nói "Sự thánh thiện
không dành cho chúng tôi"
Nhưng có chắc sự thánh thiện không dành
cho đời sống vợ chồng không?
Phần đông chúng ta có lẽ vẫn quan niệm
khác xa rằng cách duy nhất để nên thánh là sống đời độc thân thánh hiến, và đời
sống vợ chồng chỉ là điều bất đắc dĩ cho những người “không thể làm tốt hơn”.
Bằng cách phong chân phước cho hai cặp
vợ chồng vào năm 2001 và 2008, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và Đức Giáo
Hoàng Biển Đức XVI tái khẳng định mạnh mẽ rằng hôn
nhân là con đường nên thánh.
Nên thánh không phải là
độc quyền dành riêng cho những linh mục, tu sĩ hoặc nhà thông thái. Đó là ơn
gọi phổ quát dành cho mọi người. Người ta có thể nên thánh trong bất cứ hoàn
cảnh và bậc sống nào.
Những chi thể thánh của
Chúa Kitô và Hội Thánh
Trong
Nghi Thức Thánh Lễ Hôn Phối, theo bản dịch mới của Ủy Ban Phụng Tự, Hội Ðồng
Giám Mục Việt Nam 1993, người ta đọc thấy những lời nguyện sau:
“Lạy
Cha chí thánh, Cha đã tạo ra người nam và người nữ để họ cùng nhau tạo nên hình
ảnh của Cha trong sự hợp nhất giữa xác thịt và trái tim, và do đó hoàn thành sứ
mệnh của họ trên thế giới. Xin cho những người vợ / chồng mới này được hiệp nhất trong cùng một tình yêu và tiến tới cùng một
sự thánh thiện”.
Cũng
trong nghi thức ấy, người ta đọc thấy những lời nguyện tín hữu sau:
“Lạy
Cha chí thánh, Cha đã muốn kết hợp hai người nam nữ bằng hôn ước để họ suốt đời
gắn bó yêu thương và sống hòa thuận trong tình nghĩa vợ chồng, để nhờ cuộc hôn nhân thánh thiện con cái Cha ngày thêm đông
đảo”.
“Lạy
Cha, Cha dùng bí tích cao trọng thánh hóa tình nghĩa vợ chồng, để hôn nhân tượng trưng
cho sự kết hợp nhiệm mầu giữa Chúa Kitô và Hội Thánh”.
“Lạy
Cha, xin cho đôi tân hôn này được kiên trì giữ vững đức tin, và thiết tha yêu
mến luật Cha; được trọn tình chung thuỷ với nhau để
nêu gương một đời sống thánh thiện”.
Vậy sự thánh thiện là gì?
Chúng ta ngay lập tức phải
nhớ rằng một vị thánh không phải là một người hoàn hảo!
Con người không thể hoàn hảo, và Thiên Chúa không yêu cầu chúng
ta đạt được những mục đích mà chúng ta không thể đạt được.
Nhưng thế nào là một vị thánh?
Sự thánh thiện là mong đợi tất
cả từ Thiên Chúa. Việc
tìm cách trở thành chứng nhân nhờ thực
hiện một đời sống đạo đức hoàn hảo không phải là vấn đề gì khác hơn là để Thiên Chúa
sống trong chúng ta và thay đổi tâm hồn chúng ta.
Thánh nhân là người cố
gắng, với tấm lòng chân thành, yêu mến Thiên Chúa và rao truyền Tình yêu thương
của Ngài giữa loài người, để làm chứng cho sự hiện diện đầy yêu thương và an ủi
của Thiên Chúa.
Chính
trong tình yêu mà những người nam và những người nữ đã đặt vào đó những hành
động êm dịu nhất mà qua đó chúng ta có thể cảm nhận được sự thánh thiện của họ.
Tuy
nhiên, gương mẫu tốt nhất về sự thánh khiết luôn luôn là và mãi mãi sẽ là gương
mẫu của Chúa Kitô. Do đó, chính khi bước theo Ngài mà người ta nên thánh.
Bí tích hôn nhân
“Bí tích Hôn nhân biểu thị
sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Hội Thánh. Ngài ban cho vợ chồng ân sủng để yêu
nhau bằng tình yêu mà Chúa Kitô đã yêu Giáo Hội của Ngài; Nhờ đó, ân sủng của
Bí Tích hoàn thiện tình yêu nhân bản của vợ chồng, củng cố sự hiệp nhất bất khả
phân ly của họ và thánh hóa họ trên con đường dẫn đến sự sống vĩnh cửu”
(Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 1661)
Hôn
nhân được xem là một kết ước giữa một người nam và một người nữ để chung tay
gắn kết xây dựng cuộc sống. Hôn nhân là một ơn gọi ấp ủ, nuôi dưỡng những điều
tốt đẹp đối với các cặp vợ chồng và theo lẽ tự nhiên sẽ đưa tới sự sinh sôi nảy
nở và giáo dục con cái. Hôn nhân là một bí tích, như điều mà Thánh Phaolô đã
nhắc đến trong Tân Ước:
“Vì lòng kính sợ Chúa
Kitô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau. Người làm vợ hãy tùng phục chồng như
tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng như Chúa Kitô là đầu của Hội Thánh,
chính Ngài là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Ngài. Và như Hội Thánh
tùng phục Chúa Kitô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như
vậy. Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Chúa Kitô yêu thương Hội
Thánh và hiến mình vì Hội Thánh; như vậy, Ngài thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh
bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Ngài, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng
lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh
thiện và tinh tuyền. Cũng thế, chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là
yêu chính mình. Quả vậy, có ai
ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác
mình, cũng
như Chúa Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Ngài. Sách Thánh có
lời chép rằng: Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả
hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Chúa
Kitô và Hội Thánh. Vậy mỗi người trong anh em hãy yêu vợ như chính mình, còn vợ
thì hãy kính sợ chồng”.
(Êphêsô 5: 21-33).
Theo
quy định của Giáo Hội về hôn phối, đôi vợ chồng bắt buộc phải được tự do và có
chủ ý quyết định tiến tới hôn nhân. Đó
chính là “Sự ưng thuận kết hôn”. Bày tỏ ý định ưng thuận tại thời điểm kết hôn là
nghi lễ cốt yếu để sự ưng thuận kết hôn trở nên có hiệu lực, để thiết lập một
mối tương giao không thể tách rời giữa người chồng và người vợ, và đó cũng
chính là bí tích hôn phối. Bản chất của Bí Tích Hôn phối là sự ưng thuận lẫn
nhau như thế.
Khi
cử hành nghi lễ Bí tích Hôn phối, Linh mục chủ sự hỏi đôi hôn phối và họ trả
lời trước mặt cộng đoàn như sau:
Chủ tế
hỏi:
Anh
chị có hoàn toàn tự ý và tự do không?
Đôi hôn phối từng người lần lượt trả lời
:
Thưa có.
Chủ tế hỏi:
Khi
chọn đời sống hôn nhân, anh chị có sẵn sàng yêu
thương và tôn trọng nhau suốt đời không?
Đôi hôn phối từng người lần lượt trả lời
:
Thưa có.
Chủ tế hỏi:
Anh
chị có sẵn sàng yêu thương và đón nhận con cái Chúa
sẽ ban, và giáo dục chúng theo luật Chúa Kitô và Hội Thánh không?
Đôi hôn phối từng người lần lượt trả lời
:
Thưa
có.
Như
vậy, qua ba lần nói tiếng “Thưa Có”, đôi hôn phối công khai cam kết trao ban
trọn cuộc đời mình cho nhau và thiết lập một mối tương giao mãi mãi không thể
tách rời.
Bí
Tích Hôn Phối là dấu hiệu hữu hình của một thực tại
vô hình. Vì vậy, các cặp đôi hôn phối đưa ra dấu chỉ hữu hình của
tình yêu của họ để nó trở thành hình ảnh của tình yêu của Chúa Kitô dành cho
Giáo Hội của Ngài, tình yêu này là vô hạn và sẽ không bao giờ lấy lại được.
Qua
Bí Tích Hôn phối, Giáo hội bảo đảm sự hiện diện của Chúa Kitô trong chính trái
tim của đôi vợ chồng. Sự hiện diện này của Chúa Kitô là sự hiện diện của niềm vui, bình an và hòa giải trong mối
quan hệ yêu thương của hai vợ chồng.
Nhưng
chúng ta đừng quên rằng hôn nhân là sự kết hợp của hai hữu thể bị thống trị bởi các khuynh hướng tội lỗi, và sớm
muộn họ không thể tránh khỏi chuyện gây ra cho nhau ít nhiều những thương tích
tâm hồn, thậm chí cả thể xác, mà những thương tích ấy chỉ có thể chữa lành khi hai vợ chồng biết chạy đến Chúa Kitô
một lần nữa, với mong ước hoán cải và hòa giải thật lòng.
Đây
không phải là một chuyện dễ dàng, vì nó đòi hỏi mỗi bên phải có sức mạnh tâm
hồn đủ để “dẹp bỏ tự ái của cái tôi riêng”, “hy sinh quên mình”, “vác thập giá
theo Chúa Kitô”. Chính đây là lúc đôi vợ chồng biểu lộ cách cụ thể và rõ ràng nhất “sự thánh
thiện” tiềm tàng trong bí tích hôn nhân, theo gương mẫu của Chúa Kitô, Đấng đã
chấp nhận cuộc khổ nạn, chết đi và mai táng trong mồ, nhưng Ngài đã sống lại
trong vinh quang mừng vui.
Chúa
Kitô hiện diện, cả trong cuộc sống công khai của đôi vợ chồng, trong các mối
tương quan của họ với những người khác, và trong cuộc sống thân mật nhất của
họ, nếu đôi bạn dành một chỗ cho Ngài, như đôi bạn trong tiệc cưới Cana khi
xưa! Bí tích Hôn Phối chỉ hao mòn khi nó không được dùng đến, nghĩa là khi đôi
vợ chồng không còn nghĩ đến Đấng đã đứng ra
chứng kiến, chúc phúc cho lễ thành hôn của họ và vẫn còn đang cùng đi với họ
trong từng giây phút của cuộc sống ơn gọi hôn nhân của họ!
Nếu không có Chúa kitô thì
không thể có sự thánh thiện, cho bất cứ ơn gọi nào. Trái lại, khi có Chúa Kitô thì trong bất
cứ hoàn cảnh nào, nơi nào thời nào, trong ơn gọi nào, người ta đều có thể dần
dần trở nên giống Chúa Kitô, trở nên thánh: “nên
đồng hình đồng dạng với Con của Ngài… Ngài cũng làm cho nên công chính; những ai Ngài đã
làm cho nên công chính, thì Ngài cũng cho hưởng phúc vinh quang” (Rôma 13: 29-30), nếu “Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không
chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng
anh em hãy mặc lấy
Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo
tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng” (Rôma 13: 13-14).
Sự thánh thiện của đôi vợ chồng
Một
đôi vợ chồng đồng ý biến ngôi nhà của họ thành một “Giáo
Hội nhỏ” thì họ trở thành sự phản chiếu có một không hai của khuôn
mặt Thiên Chúa: lòng trung thành, sự trao ban rộng rãi sự sống, lòng hiếu
khách, sự mở lòng với người khác bất chấp mọi lo lắng, tinh thần khen ngợi và
vui vẻ, ngay cả trong thử thách, trung thành với sự kết hợp, giữa những khó
khăn trong hôn nhân, kiên trì hiến thân, sống điều độ, tiếp đón người nghèo,
v.v. Đây chính là ý nghĩa chính yếu của Bí Tích Hôn Phối.
Nhờ
những ân huệ của Thiên Chúa, một tình yêu con người trở thành dấu chỉ của Tình
yêu Thiên Chúa dành cho con người.
Trong
thư Rôma , Thánh Phaolô khuyên bảo và dặn dò các tín hữu: “Lòng bác ái không
được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành;
thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình” (Rôma 12: 9).
“Vậy chúng ta đừng xét đoán nhau nữa. Tốt hơn, anh em hãy xét sao để
tránh gây cớ cho anh em mình phải vấp hay phải ngã”. (Rôma 14: 13).
“Hãy đồng tâm nhất trí với
nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình
là khôn ngoan, đừng lấy ác báo ác, hãy chú tâm vào những điều mọi người cho là
tốt. Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được, để sống hoà thuận với mọi
người” (Rôma
15: 3).
“Còn với những người đã
kết hôn, tôi ra lệnh này, không phải tôi, mà là Chúa: vợ không được bỏ chồng,
mà nếu đã bỏ chồng, thì phải ở độc thân hoặc phải làm hoà với chồng; và chồng
cũng không được rẫy vợ”. (Rôma
15: 10-11).
Đời sống đôi lứa là một
phòng thực nghiệm đời sống Phúc âm hóa.
Chúng
ta đọc trong Tin Mừng Thánh Gioan: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu
thương anh em”. (Gioan 13: 34).
Câu
Tin Mừng này thường được đọc trong các lễ cưới. Và vì những lẽ đã rõ! Một đôi
vợ chồng được hình thành và bồi đắp từng chút
một, qua những biến cố của cuộc đời.
Khi
sự gần gũi tăng lên, sự hưng phấn buổi ban đầu được sàng lọc qua việc vợ chồng
đối mặt với những hạn chế và tính mong manh dễ bị tổn thương của họ. Liệu họ có
học được cách yêu thương và thực sự đón nhận nhau một khi hình ảnh lý tưởng mà
họ từng có về nhau bây giờ vỡ vụn vì tiếp cận với thực tế?
Thật không dễ yêu một
người mà ta đã biết rõ những thiếu sót, những tật xấu, những yếu đuối của người
ấy. Không dễ dàng để bản thân bị soi sét, để
khi không trang điểm mà vẫn tin rằng mình được người kia yêu mến.
Chính
Chúa Kitô đã khuyến khích tất cả những ai muốn bước theo Ngài, không phân biệt:
“Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh
em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên
trời, vì Ngài cho mặt trời của Ngài mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt,
và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Vì nếu anh em yêu
thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu
thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì
anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?
Vậy anh em hãy
nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mátthêu 5: 44-48).
Vợ
chồng chắc chắn không phải kẻ thù hoặc những kẻ ngược đãi nhau ngay buổi ban
đầu, mà nếu sau này lỡ xảy ra như thế, thì chỉ có thể nói cả hai người đã quên
Lời nói trên của Chúa Kitô lâu rồi. Ngay buổi ban đầu, đôi hôn nhân nên cùng
nhau lắng nghe Lời Chúa, suy niệm, cầu nguyện rồi khiêm
tốn tự điều chỉnh chính mình và giúp nhau sửa đổi từ từ, trong yêu thương, tôn
trọng khác biệt của nhau, vì sự thanh thản chung, bình an chung, hoàn thiện
chung và nên thánh chung.
Việc
sai lỗi và xúc phạm nhau không phải chuyện hiếm trong cuộc sống chung vợ chồng,
vấn đề chỉ trở nên trầm trọng khi một trong hai vợ chồng khăng khăng cố chấp
cho mình là phải, thậm chí coi chồng hay vợ mình là “đối
thủ” cần phải “ăn thua đủ” mà
không kịp nghĩ mình sẽ được gì và mất gì khi muốn “áp đặt” người bạn đồng hành
suốt đời của mình, ngay cả khi phần đúng thuộc về mình! Chúa Giêsu đã dạy các
môn đệ của Ngài như thế này: “Xin tha tội
cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con; xin
đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Thật
vậy, nếu anh
em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em.
Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha
lỗi cho anh em” (Mátthêu 6:
12-15).
Để
học cách yêu thương nhau như Chúa Kitô yêu thương chúng ta, vợ chồng thường
xuyên bị thử thách vượt qua chính mình. Nói cách khác, thực tế đơn giản là khi
vợ chồng tìm mọi cách để yêu nhau một cách trọn vẹn và đích thực thì họ sẽ
thăng tiến: “Vậy
chúng ta hãy theo đuổi những gì đem lại bình an và những gì xây dựng cho nhau”.
(Rôma 14: 19).
Đức
Thánh Cha Bênêđictô XVI nói: “Tình yêu
đối với tha nhân là khả thi theo ý nghĩa được chính Thánh Kinh xác định và do Chúa
Giêsu công bố. Tình yêu đó cốt tại chính điều
này là, trong Thiên Chúa và cùng với Thiên Chúa, tôi yêu người thân cận, cả khi
tôi không thích hoặc không biết người đó. Điều này chỉ trở nên khả thể từ cuộc gặp gỡ thâm sâu với Thiên Chúa, một
sự gặp gỡ trở thành hiệp thông ý muốn và thâm nhập vào trong tình cảm. Bấy giờ
tôi học cách nhìn người khác không phải chi bằng con mắt và tình cảm của riêng
tôi, nhưng từ nhãn giới của Chúa Giêsu Kitô. Vượt qua dáng vẻ bên ngoài, tôi
thấy được nơi tha nhân sự chờ đợi một cử chỉ yêu thương, một cử chỉ quan tâm mà
tôi cho họ, không chỉ qua những cơ quan được tổ chức vì mục đích ấy, chấp nhận
họ như một nhu cầu chính trị. Tôi nhìn với đôi mắt của Chúa Kitô và có thể trao
ban cho tha nhân nhiều hơn là những vật cần thiết bên ngoài: đó là cái nhìn của
tình yêu mà họ cần. Ở đây chúng ta thấy được tác động hỗ tương cần thiết giữa
tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với con người mà Thư thứ nhất của
Thánh Gioan nhấn mạnh dường ấy. Nếu cuộc đời tôi
hoàn toàn thiếu vắng việc tiếp xúc với Thiên Chúa, lúc ấy tôi sẽ nhìn người
khác như một kẻ xa lạ và không thể nhận ra hình ảnh Thiên Chúa nơi họ. Nhưng
nếu tôi loại bỏ hoàn toàn ra khỏi đời tôi việc hướng đến kẻ khác, để chỉ trở
thành "đạo đức", chỉ để thực hiện những "phận vụ tôn giáo"
của tôi, thì liên hệ với Thiên Chúa sẽ khô héo ở nơi tôi. Liên hệ này có thể
"đúng đắn", nhưng không có tình yêu. Chính
sự sẵn sàng của tôi đến với người thân cận, để minh chứng tình yêu đối với họ,
sẽ làm cho tôi dễ cảm nghiệm Thiên Chúa” (Thông
Điệp Deus Caritas Est, Tháng Hai, 2006).
Vợ
chồng còn hơn thế nữa, kết hôn rồi lại càng phải đối xử tốt hơn với nhau, quan
tâm yêu thương nhau nhiều hơn. Một người đàn ông
sau khi kết hôn cần đối xử tốt với vợ hơn cả khi trước, và người vợ của người
đó cũng sẽ làm như vậy.
Trong
một buổi liên hoan, tất cả bạn bè của người chồng đều cười nhạo anh vì họ biết
anh luôn tìm mọi cách đối xử tốt với vợ của mình: “Đã kết hôn rồi sao lại còn
phải mệt mỏi như vậy”. Người đàn ông khẽ mỉm cười, nói rằng: “Trước khi kết
hôn, có nhiều chàng trai muốn theo đuổi cô ấy, có nhiều chàng trai đối xử tốt
với cô ấy, và tôi chỉ có thể chinh phục được cô ấy bằng cách đối xử tốt hơn tất
cả những chàng trai đó”.
“Sau
khi kết hôn, những chàng trai đó không còn có thể đối xử tốt với cô ấy nữa, chỉ
mình tôi mới có thể tiếp tục đối xử tốt với cô ấy mà thôi, vậy tôi phải đối xử
với cô ấy tốt hơn nữa để cô ấy không cảm thấy bị bỏ rơi, cô đơn lạc lõng. Tất cả những gì tôi làm chỉ để khiến cô ấy được hạnh
phúc”.
Những
đa đoan, khó khăn, thử thách đối với đời sống vợ chồng Kitô Hữu lại càng phải
tạo thành một động lực cụ thể để đời sống của cả hai cùng tăng trưởng, trở nên
thánh thiện. Đó là một lời mời được ẩn giấu một cách kín đáo bên trong những sự
kiện tưởng như vô thưởng vô phạt xảy ra hàng ngày mà không được lập trình sẵn.
Không
giống như những khoảng thời gian cầu nguyện hoặc tiết chế mà đôi vợ chồng có
thể lên kế hoạch quyết định trao ban bản thân mình và đưa vào danh sách các
việc cần làm, thì những khoảng thời gian phát triển tâm linh mạnh mẽ trong đời
sống vợ chồng lại nảy sinh một cách tự phát hơn. Do đó, điều quan trọng đầu
tiên là phải chú ý và sẵn sàng cho những khoảng thời gian đó.
Còn
bao nhiêu cơ hội phát triển chưa được khai thác, chỉ đơn giản là do thiếu chăm
chú theo dõi! “Như vậy, mỗi người trong chúng ta sẽ phải trả lời về chính mình trước
mặt Thiên Chúa”. (Rôma 14:
12).
Chính
trong nhịp điệu không thể đoán trước được của cuộc sống hàng ngày mà vợ chồng
chia sẻ sự quan tâm yêu thương nhau. Chính trong nhịp điệu đó mà các cặp vợ
chồng nếu sống theo các giá trị Tin Mừng thì từng bước họ sẽ đạt đến một phẩm
chất tình yêu lớn lao hơn, một phẩm chất hiện hữu lớn lao hơn, tóm lại, cả hai
vợ chồng đạt đến sự thánh thiện.
Thánh
Têrêsa Calcutta nói: “Thánh thiện, đó không phải là món
hàng xa xỉ chỉ dành cho một số người. Nó dành
cho bạn, cho tôi và cho tất cả chúng ta. Nó
là một bổn phận giản dị, vì nếu chúng ta biết yêu thương, chúng ta biết cách
nên thánh thiện”.
Thật
đẹp khi các đôi vợ chồng thường xuyên hướng lòng về Mẹ Maria và nài xin:
Lạy
Mẹ Maria, chúng con xin Mẹ nói với Chúa Giêsu, như xưa tại tiệc cưới Cana, “Họ hết rượu rồi” (Gioan 2: 3) để Con Mẹ đổ đầy loại rượu
ngon của tình yêu vĩnh cửu nơi Thiên Chúa vào con tim của chúng con, vào cõi
lòng đang cạn dần men say buổi yêu thương ban đầu và bắt đầu nhiễm bẩn những
chất chua chát, đắng cay.
Xin
Mẹ luôn để ánh nhìn đầy quan tâm chăm sóc của lòng Từ Mẫu Mẹ trên cuộc sống của
chúng con, vì Mẹ hiện diện không như khách, nhưng như “người thân trong nhà” biết rõ “tình trạng thiếu rượu”,
vốn luôn dẫn đến nguy cơ làm cạn kiện sức sống yêu thương của chúng con dành
cho nhau.
Xin
giúp chúng con đừng quên lời Mẹ dặn bảo: “Ngài
bảo gì, các con cứ làm theo”. (Gioan 2: 5) để nhờ ghi nhớ và làm
theo Lời của Chúa Giêsu Con Mẹ mà cuộc sống trần thế của chúng con không chỉ
trở nên tiệc cưới Cana, vì có Chúa và Mẹ ở cùng, mà còn là dấu chứng cho một
tiệc cưới khác: Tiệc
cưới Chiên Con, nơi chúng con được mời gọi tham dự ngay từ trần thế
này: “Nào ta hãy vui mừng hoan hỷ dâng
Chúa lời tôn vinh, vì nay đã tới ngày cử hành hôn lễ Con Chiên, và Hiền Thê của
Ngài đã trang điểm sẵn sàng, nàng đã được mặc áo vải gai sáng chói và tinh
tuyền. Thiên thần bảo tôi: "Hãy viết: Hạnh phúc thay kẻ được mời đến dự tiệc cưới Con Chiên!” (Khải huyền 2:
7-9).
Phêrô Phạm Văn Trung,
Hẹn gặp lại