HIỆP SỐNG TIN MỪNG
ĐÊM VỌNG
PHỤC SINH B
Cv
10,34.37-43 ; Cl 3,1-4 ; Mc 16,1-8
I. HỌC
LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc 16,1-8.
(1) Vừa hết ngày sa-bát, bà Ma-ri-a
Mác-đa-la với bà MA-RI-A mẹ ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê, mua dầu thơm
để đi ướp xác Đức Giê-su. (2) Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong
tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ. (3) Các bà bảo nhau: “Ai
sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây? (4) Nhưng vừa ngước mắt
lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn
lắm. (5) Vào trong mộ, các bà thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc
áo trắng ; các bà hoảng sợ. (6) Nhưng người thanh niên liền nói:
“Đừng hoảng sợ! Các bà tìm Đức Giê-su Na-da-ret, Đấng bị đóng đinh
chứ gì! Người đã chỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người
đây này!”. (7) Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng:
Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy
Người như Người đã nói với các ông. (8) Vừa ra khỏi mộ, các bà liền
chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với
ai vì sợ quá.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin
Mừng tường thuật mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giê-su đã được thiên
thần loan báo trước tiên cho ba người phụ nữ khi họ đi ra mồ tứ sáng
sớm ngày thứ nhất trong tuần để xức thuốc thơm ướp xác Thầy. Thiên
thần đã ra lệnh cho các bà phải trở về loan báo Tin Mừng ấy cho các
môn đệ của Đức Giê-su và nhắn tin là họ hãy trở về xứ Ga-li-lê để gặp
Người tại đó.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-2: + Vừa hết ngày Sa-bát:
Nghĩa là lúc mặt
trời lặn, vào lúc 6 giờ chiều ngày sa-bát, cuối ngày Thứ Bảy và bắt
đầu ngày thứ nhất trong tuần. + Bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà
Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê, và bà sa-lô-mê: Vì có nhiều bà khác
cùng tên Ma-ri-a, nên người ta thêm tên làng quê cũ để phân biệt nên gọi
bà là Ma-ri-a Mác-đa-la. Trong Tin Mừng, Ma-ri-a Mác-đa-la là người bị
7 quỉ ám (x. Lc 8,2), nhưng không phải là phụ nữ tội lỗi đã xuất hiện tại
nhà người Pha-ri-sêu (x. Lc 7,37-48). Bà là một trong mấy người đã đến
viếng mộ trống (x. Ga 2,1; Mt 28,1; Mc 16,1; Lc 24,10). Bà đã đứng dưới
chân thập giá Đức Giê-su (x. Mc 15,40), có mặt khi mai táng và đã quan sát
nơi đã an táng Người (x. Mc 15,47). Cả 4 Tin Mừng đều thuật lại việc mấy
phụ nữ đã đi viếng mộ Đức Giê-su. Riêng Ma-ri-a Mác-đa-la đã được cả
bốn Tin Mừng nêu tên gọi, cho thấy uy tín và vai trò quan trọng của bà
trong Hội Thánh sơ khai. + Mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giê-su:
Vì thời gian Đức Giê-su được môn đệ mai táng quá ngắn và được làm vội
vã, nên mấy phụ nữ này đã phải mua thêm dầu thơm để xức lên thi hài
của Người theo phong tục Do Thái. + Sáng tinh sương Ngày Thứ Nhất
trong tuần: Sáng tinh sương khi mặt trời mới mọc của ngày Chúa
Nhật, tức khoảng 6 giờ sáng.
- C 3-4: + Ai sẽ lăn tảng đá ra
khỏi cửa mộ giùm ta đây?: Ngôi mộ an táng Đức Giê-su là ngôi
mộ đục trong tảng đá lớn và được một tảng đá khác che lấp ngoài
cửa mộ. + Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn
qua một bên rồi: Tảng đá to che chắn cửa ngôi mộ đã được lăn
sang một bên. Người lăn tảng đá không ai khác hơn là thiên thần đang
ngồi trong mộ lúc đó.
- C 5-6: + Người thanh niên ngồi
bên phải mặc áo dài trắng: Áo dài trắng cho thấy đây là một
thiên thần. Vị này loan Tin Mừng Chúa phục sinh cho các bà, và trao
sứ vụ loan báo tin ấy cho Phê-rô và các môn đệ khác.+ Người đã
trỗi dậy rồi, không còn ở đây nữa: Đức Giê-su sống lại và
thân xác Người đã biến đổi nên mới, có những đặc tính khác với thân
xác khi chịu khổ nạn. Do đó, đừng tìm kiếm Người tại mồ của kẻ
chết, vì Người đã sống lại vinh quang rồi. Từ đây, Người không lệ
thuộc vào không gian và thời gian như một người phàm nữa.
- C 7-8: + Xin các bà về nói
với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng: Khi đi viếng mộ của Đức
Giê-su ngay từ sáng sớm nhằm xức dầu thơm cho xác Đức Giê-su. Nhưng
Người đã sống lại rồi, và thiên thần đã ra lệnh cho các bà phải đi
báo tin vui phục sinh cho các môn đệ. Phê-rô được nêu tên vì ông đứng
đầu Nhóm 12. + Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông: Vì
trước đây có lần Đức Giê-su đã nói: “Sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến
Ga-li-lê trước anh em” (Mc 14,28). Ga-li-lê là miền đất mà dân Do thái sống
lẫn lộn với các lương dân.
- HỎI: So sánh thân xác của Đức
Giê-su sau khi sống lại vào sáng Chúa Nhật Phục Sinh với thân xác của
Người trước khi chịu tử nạn giống và khác nhau thế nào? Thân xác
của các người được Đức Giê-su làm phép lạ cho hồi sinh như: Anh La-da-rô,
người con trai bà góa thành Na-in, con gái ông Gia-ia… có giống với thân
xác loài người được sống lại vào ngày tận thế không?
- ĐÁP:
+
Đức Giê-su sau khi sống lại vào ngày Chúa Nhật, cũng chính là Đức
Giê-su đã chịu tử nạn vào chiều Thứ Sáu tuần thánh, như Người đã cho các môn đệ xem tay
và cạnh sườn Người (x. Ga 20,20), cho ông Tô-ma xem dấu đinh ở bàn tay, cho
ông xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào vết thương nơi cạnh sườn
Người (x. Ga 20,25.27-29). Người cũng cho thấy Người không phải là ma vì có
xương thịt mà các ông có thể nhìn xem và sờ thấy. Người còn ăn một
khúc cá nướng trước sự chứng kiến của các ông (x Lc 24,38-43).
+
Nhưng thân xác của Chúa Giê-su Phục
Sinh có những đặc tính mới, khác
với thân xác của Người trước khi chịu tử nạn, đến nỗi Ma-ri-a Mác-đa-la gặp Chúa Phục Sinh hiện ra
mà tưởng là người giữ vườn (x. Ga 20,15). Hai môn đệ làng Em-mau cùng
đi và nói chuyện với Đức Giê-su trong nhiều giờ mà vẫn không nhận ra
Người (x. Lc 24,16). Thân xác Chúa Phục Sinh có khả năng đi xuyên qua
cửa nhà Tiệc Ly đóng kín để hiện ra với các tông đồ (x. Ga 20,19.26).
Thân xác Người lúc ẩn lúc hiện (x. Lc 24,27.30-31). Chúa Phục Sinh cũng hiện
diện ở khắp nơi nên dù không hiện diện cụ thể mà vẫn nghe được lời Tô-ma nói
với các anh em môn đệ (x. Ga 20,27). Ngày nay Đức Giê-su Phục Sinh tuy đã
được Chúa Cha tôn vinh, nhưng thân xác Người có đặc tính thiêng liêng, nên
người ta không thể xác định Người đang ở nơi đâu (x. Lc 24,51 ; Pl 2,
9-11).
+ Thân
xác của những người đã chết, được Đức Giê-su làm phép lạ hồi sinh
như: ông La-da-rô chết được chôn trong mồ 4 ngày (x. Ga 11,43-44), con trai
bà góa thành Na-in đang được khiêng đi chôn (x. Lc 7,14-15), con gái ông
Gia-ia mới chết đang nằm trên giường (x. Mc 5,40-42). Những người này
chỉ được Đức Giê-su cho phục hồi sự sống tự nhiên và sau đó lại
bị chết một lần nữa. Còn mầu nhiệm kẻ chết sống lại trong ngày
tận thế có những đặc tính giống như thân xác Đức Giê-su Phục Sinh.
Người ta sẽ bước vào một cuộc sống mới vinh quang, không bị hủy diệt
và luôn tràn đầy sự sống siêu nhiên của Thiên Chúa.
II. SỐNG
LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA:
“Đức Giê-su đã sống lại, không còn ở đây nữa” (Mc 16,6):
2. CÂU CHUYỆN:
1) ÁNH SÁNG PHỤC SINH XUA TAN BÓNG TỐI
GIAN ÁC TỘI LỖI:
JOHN KELLER, một diễn giả nổi tiếng một
hôm đang thuyết trình trước khoảng 100 ngàn người tại sân vận động Los Angeles
bên Hoa Kỳ. Giữa buổi diễn thuyết ông bỗng dừng lại và nói: "Bây giờ xin
các bạn đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này".
Đèn tắt, sân vận động chìm trong bóng
tối dày đặc, ông John Keller nói tiếp: "Bây giờ tôi đốt lên một que diêm.
Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên: “Đã
thấy!". Một que diêm được bật lên, cả sân vận động vang lên những tiếng
hô: "Đã thấy!".
Sau khi đèn được bật sáng lên, ông John
Keller giải thích: "Ánh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một
que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy".
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận
động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: "Tất cả những ai ở đây có
mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên!". Bỗng chốc cả sân vận động rực
sáng.
Ông John Keller kết luận: "Nếu tất
cả mọi người chúng ta hợp lực cùng nhau, sẽ có thể chiến thắng bóng tối sự dữ
và oán thù bằng những đốm sáng của tình thương và lòng tốt của chúng ta".
Mỗi người là một cây đèn, cần phải được
thắp sáng lên. Một ngọn đèn cháy sáng, rồi hai, rồi ba, rồi hàng trăm, hàng
ngàn ngọn đèn cháy sáng, thế giới tối tăm này sẽ dần dần bớt tối đi. Nếu tất cả
mọi người đều thắp sáng lên ngọn đèn tin yêu của mình, thì thế giới này sẽ bừng
sáng lên.
Mỗi tín hữu chúng ta đều có cây đèn đức
tin, nếu được cháy sáng đức cậy và đức mến, thì mỗi gia đình, cộng đoàn Hội
Thánh, và cả thế giới sẽ rực sáng lên tình thương, niềm vui và ơn cứu độ như
lời Chúa dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ
thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự
trên trời” (Mt 5,16).
2) CÂU CHUYỆN LỘT XÁC NÊN MỚI:
Vào một
buổi trưa hè oi ả, nhà đạo diễn lừng danh tại Hô-li-út (hollywood) tên
là SƠ-SIU ĐƠ MIU-Ơ (Cecil B. De Mille) đi hóng gió trên chiếc du thuyền
ven bờ hồ thuộc tiểu bang Men (Maine). Đang chăm chú đọc sách, bỗng ông
ngó xuống mặt hồ thì thấy một đàn cánh quýt nước đang tung tăng đùa
giỡn trên mặt nước. Rồi một chú cánh quýt đã bỏ đàn leo lên mạn
thuyền cạnh ghế ông đang ngồi, và nằm im như chết. Đơ Miu-ơ chăm chú
nhìn con cánh quýt chừng một phút, rồi ông tiếp tục đọc sách. Ba
giờ sau, Đơ Miu-ơ lại nhìn con cánh quýt kia và rất ngạc nhiên khi
thấy dường như nó đã bị chết khô. Rồi bỗng chiếc mai của nó bị nứt
ra làm đôi. Ông nhìn thấy có cái gì đó đùn lên từ kẽ nứt ấy. Trước
tiên là chiếc đầu ươn ướt, rồi đến thân mình và mấy chiếc cánh cũng
dần lộ ra. Cuối cùng một chú chuồn chuồn thật đẹp xuất hiện. Đơ Mi-ơ
tiếp tục quan sát con chuồn chuồn. Ông thấy nó cử động đôi cánh, rồi
từ từ bay lên. Nó bay lượn trên mặt nước, nơi có những con cánh quýt
bạn nó đang nô đùa trên mặt nước, nhưng xem ra chúng không nhận ra con
chuồn chuồn mới nhập bọn kia. Đơ Miu-ơ đưa ngón tay ra sờ nhẹ vào chiếc
vỏ ngoài của con cánh quýt. Thì nó chỉ còn là cái xác nhẹ hều và
ọp ẹp rỗng không như một ngôi mộ trống rỗng.
Ai trong chúng ta cũng thấy có sự
giống nhau giữa câu chuyện lột xác của con cánh quýt, với sự Phục
Sinh của Đức Giê-su: Như con cánh quýt đã bị chết khô trên mạn thuyền,
thì Đức Giê-su cũng bị chết treo trên cây thập giá. Như con cánh quýt
được biến hóa trở thành con chuồn chuồn nước trong thời gian 3 giờ
đồng hồ, thì Đức Giê-su cũng được biến đổi từ tình trạng bị chết rồi
sống lại trong thời gian chưa đầy 3 ngày. Như con cánh quýt đã hóa
thành con chuồn chuồn nước, khiến các con cánh quýt bạn nó không
nhận ra, thì Đức Giê-su cũng trở nên một người mới, đến nỗi nhiều
môn đệ thân tín cũng không nhận ra Người sau khi phục sinh và đã hiện ra gặp
gỡ nói chuyện với họ. Như con cánh quýt sau khi lột xác thành chuồn
chuồn nước, đã có khả năng bay lượn trong không khí, thì thân xác của
Đức Giê-su sau khi sống lại cũng có những năng lực mới, trổi vượt hơn
thân xác của Người trước đó...
3)
THANH TẨY MÙI HỔ DỮ:
Tạp chí “Bách Khoa Văn Học” có đăng một
truyện ngắn với tựa đề là “Mùi Cọp” như sau:
Có một đôi vợ chồng trẻ nọ. Chồng là
giảng viên đại học. Còn vợ vừa là diễn viên, lại vừa huấn luyện thú của một
đoàn xiếc. Người chồng, dù nhận thấy nghề dạy thú của vợ mình có một cái gì đó
không bình thường, nhất là cái mùi cọp, lúc nào cũng hăng hắc, xuất phát từ
thân thể của vợ, nhưng anh vẫn yêu vợ tha thiết. Cái mùi cọp thật là khó chịu,
nhưng người diễn viên dạy thú không thể thiếu mùi ấy, vì nhờ đó mà bày cọp dữ
mới nhận ra cô và ngoan ngoãn nghe theo cô. Rồi một hôm, hai vợ chồng giận nhau
và cơn giận kéo dài nhiều ngày. Cuối cùng, người vợ chủ động làm lành bằng cách
tẩy sạch mùi cọp bằng một loại nước hoa thơm phứ và hai người đã làm hòa cùng
nhau. Thế nhưng, đến đêm hôm sau thì người vợ đã chết. Chị đã chết vì con cọp
dữ mà chị trước đó chị đã thuần hóa được. Vì nó đã không còn nhận ra chị khi
mùi cọp quen thuộc không còn, mà chỉ có mùi nước hoa xa lạ. Con cọp dữ đã hoảng
hốt trước cái mùi lạ lẫm ấy, nên đã tự vệ bằng cách tấn công chị. Và chỉ trong
phút chốc, chị đã bị tan xác dưới móng vuốt của con cọp mà chị hết lòng yêu
thương.
Qua câu chuyện trên, chúng ta cảm nhận
được tình thương yêu của người vợ. Vì thương chồng, chị đã chấp nhận tẩy rửa
mùi cọp nơi mình và đã hy sinh mạng sống mình do hành động ấy. Đức Giê-su đã
yêu và yêu đến cùng, nên đã hiến mạng sống mình vì chúng ta như Người đã nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình
thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Trong
Đêm thánh vọng Phục Sinh, Giáo Hội mời gọi chúng ta cùng chịu mai táng vơi Đức
Ki-tô, chôn vùi đi con người cũ tội lỗi với mùi dục vọng sai trái, để được sống
lại với Người như lời thánh Phaolô: “Hãy mặc lấy người mới đã
được tạo dựng nên theo Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện bắt nguồn
trong sự thật” (Ep 4,22-24).
4)
TIN
VÀO CHÚA PHỤC SINH SẼ KHÔNG BUỒN
SẦU VÌ MẤT NGƯỜI THÂN:
Một cậu bé
hỏi mẹ về đứa em mới chết hiện đang ở đâu. Người mẹ đáp: “Em con đang ở trên
thiên đàng với Chúa Giê-su”. Mấy ngày sau, bà mẹ nói chuyện với bạn bè tỏ ý đau
buồn khi nhắc đến đứa con mới mất. Bé ngạc nhiên hỏi mẹ: “Khi mẹ mất vật gì,
tức là mẹ không biết nó đang ở đâu phải không hả mẹ?” Bà mẹ đáp: “Phải”. Bé hỏi
tiếp: “Mẹ biết em con đang ở với Chúa, sao mẹ lại buồn và nói là em con đã
mất?” Bà mẹ chợt tỉnh ra nên từ đó bà không còn cảm thấy đau buồn nữa, vì ý
thức rằng con mình giờ đang vui hưởng hạnh phúc với Chúa trên thiên đàng.
3.
SUY NIỆM:
Hôm nay
cùng với Hội Thánh, chúng ta long trọng mừng mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giê-su.
Đây là mầu nhiệm quan trọng nhất trong đạo Công Giáo dựa trên những bằng chứng
vững chắc và mang lại hiệu quả tốt đẹp trong cuộc sống đức tin của người tín
hữu, nhờ đó chúng ta mới có thể chu tòan sứ mệnh làm chứng nhân của Người.
1) Ý nghĩa của mầu nhiệm Phục Sinh:
a) Đức Ki-tô sống
lại, mang đến cho chúng ta niềm hy vọng cùng được sống lại với Người: Khi sống lại Đức Ki-tô đã mở đường cho chúng ta từ cõi chết vào trong cõi
sống muôn đời. Từ nay, thập giá không còn là sự nhục nhã, nhưng là dấu hiệu của
phục sinh vinh quang. Ánh sáng của Đức Ki-tô đã bừng lên trong đêm tối, và niềm
hy vọng thân xác loài người sau này sẽ sống lại không phải là sự hão huyền. Đến
ngày tận thế Đức Ki-tô sẽ lại đến phán xét chung nhân loại. Người sẽ cho những
ai tin vào Người, thể hiện qua việc yêu thương phục vụ Người hiện thân nơi
những người nghèo đói bất hạnh, cũng sẽ được vào trong vinh quang phục sinh với
Người.
b) Người tín hữu
cần sống niềm tin vào Chúa Ki-tô Phục Sinh như thế nào?
Chết với
Chúa Ki-tô là loại trừ con người cũ của chúng ta đang nằm dưới ách thống trị
của các thói hư như tham lam, ích kỷ, kiêu căng, ghen ghét, hận thù…. để con
người mới được tái sinh trong Chúa Ki-tô được lớn lên.
Sống lại
với Chúa Ki-tô là mặc lấy Chúa Ki-tô như lời thánh Phao-lô: “Như giữa ban ngày,
anh em hãy sống đoan trang tiết độ, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm
đãng, không kình địch ghen tương; nhưng hãy mặc lấy Đức Giê-su
Ki-tô và đừng lo tìm thoả mãn những đam mê xác thịt” (Rm 13, 13-14).
Mặc lấy
Chúa Ki-tô là có những tâm tình cao đẹp, cư xử ôn hoà nhân ái như Chúa Ki-tô,
biết thứ tha, yêu thương và chân thành phục vụ tha nhân như Chúa Ki-tô.
Làm được
như thế, chắc chắn chúng ta sau này sẽ được khải hoàn vinh thắng với Chúa Phục
Sinh.
2) Chu toàn
sứ mệnh làm chứng cho Chúa:
a) Các môn đệ đã chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa:
Sở dĩ các
môn đệ đã có thể làm chứng cho Chúa Giêrsu là nhờ được ơn Thần Khí của Người
biến đổi: Từ thái độ sợ hãi trốn chạy trở nên can đảm công khai nhận mình là
môn đệ Chúa, Từ thái độ hèn nhát phản bội trở nên trung thành can đảm tuyên
xưng đức tin, vui mừng chịu đòn vọt tù tội và sẵn lòng chịu chết vì đức tin.
Chắc chắn các ngài đã gặp được Chúa Phục Sinh nên lời chứng của các ngài mới
đầy xác tín và có sức thuyết phục, đến nỗi các tín hữu đầu tiên đã sẵn lòng
dâng của cải mình có làm của chung, chấp nhận cuộc sống chui lủi trốn chạy, sẵn
sàng chịu chết để làm chứng cho niềm tin vào cuộc sống vĩnh hằng đời sau. Người
ta sẽ không thể lý giải được sự biến đổi kỳ diệu đó nếu các ngài đã không gặp
được Chúa Phục Sinh.
b) Các tín hữu hôm nay phải làm chứng cho Chúa như thế nào và bằng cách
nào?:
- Làm chứng
cho Chúa hôm nay không phải chỉ là thuật lại cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa
đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm, nhưng là minh chứng cho mọi người biết Đức
Ki-tô đã chiến thắng thần chết, đã từ cõi chết sống lại mà chính chúng ta đã
được gặp Chúa và được Người biến đổi ra sao.
- Làm chứng
cho Chúa hôm nay là loan báo Tin Mừng cho những kẻ chưa tin, biểu lộ dung nhan
của Người qua lối sống quên mình vị tha và bác ái, sẵn sàng chia sẻ cơm áo cho
người nghèo đói và khiêm nhường phục vụ những người bệnh tật, bất hạnh và đang
bị bỏ rơi như phục vụ chính Chúa.
- Chúng ta
chỉ có thể làm chứng cho Chúa cách hữu hiệu nếu chúng ta cảm nghiệm được tình
yêu của Người giống như các môn đệ Chúa xưa. Ngày nay, để được biến đổi giống
như các ngài, chúng ta cần năng đến tham dự các buổi học sống Lời Chúa để tìm
hiểu ý Chúa, quyết tâm sống theo gương Chúa làm và Lời Chúa dạy. Rồi còn phải
năng lãnh nhận các bí tích nhất là dự lễ và rước lễ, chúng ta sẽ được liên kết
mật thiết với Chúa, đón nhận được Thần Khí Phục Sinh để chu toàn sứ mệnh làm
chứng cho Chúa cách hữu hiệu như Người đã phán: "Anh em sẽ
là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari
và cho đến tận cùng trái đất" (Cv 1,8).
4.
THẢO LUẬN: Trong Mùa Phục Sinh, chúng ta sẽ làm gì để chiếu tỏa ánh
sáng tin yêu trước mặt người đời bằng lời nói việc làm của chúng ta?
5. NGUYỆN
CẦU
LẠY CHÚA
GIÊ-SU, nhiều lần con liên tiếp gặp phải những điều rủi ro trái
ý. Những lúc ấy, con cảm thấy như bị Chúa bỏ rơi. Nhiều lúc con
chán nản muốn được chết đi cho xong! Nhưng lạy Chúa. Con biết Chúa cũng đã từng ở vào hoàn
cảnh giống như con: Bị môn đồ phản bội chạy trốn và chối bỏ không
biết Thầy là ai, bị quân lính đánh đập tàn nhẫn, bị dân chúng đòi
Phi-la-tô kết án tử hình thập giá, bị kẻ thù xỉ vả mắng nhiếc trên
cây thập giá, cảm thấy như bị Chúa Cha bỏ rơi... Thế mà trong những
giờ phút đau thương ấy, Chúa vẫn một lòng phó thác cậy trông, và nhờ
quyền năng Thánh Thần, Chúa đã chiến thắng thần chết, đã trỗi dậy
khỏi mồ và đã được Chúa Cha tôn vinh, để ban ơn cứu độ cho loài người
chúng con. Xin cho chúng con hôm nay biết sẵn sàng chịu đựng đau khổ là
vác thập giá do Chúa gởi đến. Nhờ cùng chết với Chúa, chúng con hy
vọng sẽ cùng được sống lại với Chúa sau này.
X) HIỆP CÙNG
MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM