Bác
sĩ NGUYỄN TIẾN CẢNH, MD.
Kính mời theo dõi
video tại đây:
https://bit.ly/2Q2qnsT
Người
đời thường nói: “Hãy nắm chắc cái gì có trong
tay….”. Xin phép được chia sẻ một mẩu chuyện về câu nói này.
Hai bé gái
đếm tiền. Một bé nói: “Tao có 5 xu.” Bé kia nói: “Tao có 10 xu”.
- Không, mày chỉ có 5 xu như tao, một bé
nói.
- Tao có 10 xu, bé kia trả lời. Vì bố tao hứa sẽ cho tao 5 xu khi tao về nhà
tối nay nên tao có 10 xu!
Đứa nhỏ này nghĩ như vậy vì nó tin ở
điều bố nó hứa với nó như một bằng chứng chắc chắn mà nó chưa nhìn thấy. Nó
tính 5 xu bố nó hứa và 5 xu nó hiện có nên nó có 10 xu.
Chúng ta sẽ rút ra được ý tưởng gì trong
câu chuyện 2 bé gái này? Bé thứ nhất chỉ đếm số tiền mà bé có trong tay. Còn bé
kia lại có ý tưởng khác; bé nghĩ đến việc đầu tư để có một cái gì to lớn hơn là
hiện có. Bé đầu tư ở lời hứa và tình yêu của bố. Đó là tất cả những khác biệt
giữa tâm tư của hai bé gái!
Trả lời của bé gái thứ hai
chính là dư âm của hai vấn đề căn bản về Niềm Tin của những ai có trong tâm,
khi nghe theo tiếng Chúa Giêsu gọi: “Hãy
theo Ta” (Mt 4:19; Ga 21:19).
Một bên được diễn tả trong thư thánh
Phaolo gửi tín hữu Do Thái (Dt 11:1): “Đức Tin là bảo đảm cho những điều ta hy
vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy”. Một bên thì dựa vào điều mà Chúa Giêsu Kitô nói
với những người đi theo Chúa qua Luca 12:32: “Đừng sợ, hỡi đoàn chiên nhỏ bé, vì Cha anh
em đã vui lòng ban Nước Trời cho anh em.”
Vậy thì, chúng ta đếm những Đồng Xu Nước
Thiên Đàng của chúng ta như thế nào?
Chúng ta đầu tư nó ra sao qua những thề hứa chưa được hoàn thành của
chúng ta? Làm sao chúng ta giữ được hy vọng và sự tin tưởng vào Vương Quốc Nước
Trời sắp tới khi lâm cảnh nguy khốn?
Thời gian là mức đo thực tế
Xã hội loài người không bao giờ đứng
yên. Nó luôn luôn vuột xa rất nhanh khỏi mọi quan niệm về thống trị và Nước
Trời mà Cha chúng ta hướng dẫn chúng ta trong cuộc sống. Ánh sáng Chúa Kitô và
những giảng huấn của Ngài thường bị lấn lướt hàng ngày do ảnh hưởng của truyền
thông báo chí xã hội, đại học, kỹ nghệ giải trí và tính tiêu cực, thụ động của
những người tự coi mình là người theo Chúa Kitô.
Sau 60 năm sóng thủy triều dâng cao
không có Chúa, Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ và các nước Tây Phương có truyền thống
Do-Thái Kitô-Giáo như con thuyền đậu không neo.
Giới trẻ theo đạo/tôn giáo sút giảm
nhiều. Người lớn theo Kitô giáo giảm 65%, tức giảm 12% trong 10 năm qua. Quả là
thê thảm và nản chí. Nhưng theo câu chuyện bé gái nói ở trên, chúng ta vẫn còn
hy vọng bởi vì chúng ta biết có Đấng để tin và tin vào cái gì.
Phải chăng có những thời gian niềm tin
của chúng ta bị lung lay? Đúng vậy. Nhưng người ta cũng thường hay nói: “Chuyện
đó tôi đã gặp phải rồi.” Chẳng cần phải đi đâu xa, cứ coi những vị Tông Đồ theo
Chúa Giesu đầu tiên. Khi họ chấp nhận lời mời
gọi của Chúa “Hãy Theo Ta” là họ đã
tin vào lời hứa của Chúa cũng như của Cha Ngài về Nước Trời.
Cái gì có thể biến đời sống thiêng liêng
của các thánh Tông Đồ tiên khởi thành một cộng đồng mới để “tuyên xưng những
lời ca tụng Chúa là đấng đã kêu gọi chúng ta vượt khỏi nơi tối tăm vào nơi ánh sáng
diệu huyền”? (1Pr 2:9). Hãy chú ý đến 3 nhận xét không những chỉ giúp chúng ta
ứng phó với thời đại đen tối này mà còn là chứng nhân làm sáng ngời Thầy của
chúng ta.
Tuyên xưng thuần nhất
Trước nhất là
lời tuyên xưng thuần nhất của các môn đệ
tiên khởi của Chúa Giêsu với Thầy của
chúng ta. Từ đó về sau tất cả mọi người, từng cá nhân một, cũng phải đối
diện với Chúa Giêsu để trả lời cùng một câu hỏi mà Chúa đã hỏi Phêrô và các
Tông Đồ khi xưa: “Các con gọi Thầy là ai?”.
Phêrô trả
lời, “Thầy là Đấng
Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống”. (Mt
16:15)
Câu hỏi này
của Chúa Giêsu ngày nay đã được loan truyền trên khắp thế giới và đặt ra cho
mỗi người chúng ta. Và chúng ta phải trả lời Chúa như thánh Phêrô đã trả lời. Chúng ta không những tuyên xưng Chúa Giêsu là ai mà còn
phải tuyên xưng Danh Ngài là Duy Nhất đã cứu chuộc tất cả mọi người
(Cv 4:12).
Bổn phận và
lòng trung thành hoàn toàn này đã đẩy họ ra khỏi nhiều qui tắc văn hóa và những
mong đợi của thời đó, đôi khi còn bị những người trong gia đình, hàng xóm láng
giềng, bạn bè trong sở làm, nhân viên nhà nước xa lánh. Biết rõ những chuyện đó nên Chúa đã đưa ra lời mời gọi: “Hãy theo Ta” và rằng “Nếu thế gian ghét bỏ anh em, anh em hãy nhớ
rằng họ đã ghét Thầy trước” (Ga
15:18).
Tại sao lại
có nhiều thù hận như vậy? Trở thành môn đệ, người theo Chúa Giêsu, là một quan
niệm hoàn toàn xa lạ vào thời đó. Trong thế giới
dân ngoại, ấp ủ một nềm tin mới thì không có nghĩa là xa lìa những thần linh cũ
đã có, nhưng là thêm một vị thần mới vào danh sách các thần linh trong gia đình
mà thôi. Có lẽ nên đặt cho nó một
cái tên mới, hoặc ưu tiên đặt vào một vị thế nào đó trên bàn thờ ở trong nhà
rồi tôn thờ cùng với tất cả mọi niềm tin. Tuy
nhiên khi nói “trong Chúa Kitô” thì có nghĩa là tôn thờ Thiên Chúa Cha và Chúa Giêsu Kitô
mà thôi, không có thần linh nào khác (Xh 20:3).
Khi
tuyên xưng: “Giêsu Kitô là Chúa” thì có 3 nghĩa: Ngài là Đấng Cứu Thế Duy Nhất được Đức Chúa Cha sai
xuống trần thế, Ngài là Đấng Thiên Sai Ngôn Sứ, và chỉ có Ngài là “Chúa Duy Nhất” -là Thầy, là Vua- của đời chúng ta.
Tuyên xưng
này buộc những người theo Chúa Giêsu phải trực tiếp đối mặt với Rome và các
hoàng đế. Từ thời Julius Caesar, thời coi Vua là Chúa đang phát triển giữa
những người cầm quyền ở Rome lên cao đến độ dân chúng phải tôn thờ các hoàng đế
như Thần như Chúa. Đôi khi còn có những sắc lệnh buộc dân chúng phải dâng hương
cho các hoàng đế như thần thánh. Không thi hành sẽ bị xử tử. Nhiều Kitô hữu do
đó đã tử vì đạo.
Những vị này
hoàn toàn hướng về những gì vượt trội hơn cả những thách thức đè nặng trên họ.
Họ tin vào Cha họ ở trên trời sẽ can thiệp vào cuộc sống của họ và ban cho họ
một viễn tượng đời sống mai sau, bảo đảm với họ là ngoài những gì mà con người
có thể tưởng tượng được còn có “những cái mà Thiên Chúa đã sửa soạn cho những ai yêu mến Ngài”
(1Cr 2:9).
Bạn có thể
chưa bao giờ bị đưa vào một nơi đầy sư tử đói như có người đã bị, nhưng bạn lại
muốn “chết từng ngày” (xem 1Cr 15:31) không phải chỉ vì những vương quốc hay
những gì thuộc về thế gian này, mà đặc biệt vì chính cái vương quốc của bạn và
những gì bạn mong ước? Bạn giữ 5 xu hay bạn giữ 10 xu mà không ai có thể lấy đi
khỏi bạn?
Chúng ta không cô đơn đâu
Thứ đến, hãy
hiểu rằng những
người theo Chúa Giêsu đầu tiên không bao giờ tin là họ thực sự cô đơn. Tại
sao họ lại tin như vậy? Việc đó có ý nghĩa gì đối với chúng ta?
Vào đêm cuối
cùng ở trần thế của Chúa Giêsu, Chúa đã hứa với họ là: “Thầy
sẽ không bỏ các con mồ côi đâu. Thầy sẽ
đến với các con”. (Ga 14:18).
Ngài đã xác định ý nghĩa của lời mà Ngài hứa trước kia: “Thầy sẽ cầu xin
Cha Thầy và Ngài sẽ ban cho các con một Đấng Bảo Trợ sẽ đến ở với các con mãi
mãi” (c.16). (Đấng Bảo Trợ:
Tiếng Hy Lạp là parackletos nghĩa là trạng sư, người bào chữa, bênh vực cho bị
cáo. Sau này lại có 2 nghĩa khác là người an ủi, người chuyển cầu…)
Chúa Giêsu
còn tiếp tục nói: “Chẳng bao lâu nữa thế
gian sẽ không còn thấy Thầy, nhưng các con vẫn thấy Thầy. Bởi vì Thầy sống thì các
con cũng sẽ sống” (c.19). Nhưng thế nghĩa là thế nào? “Ngày đó các con sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha, và các con ở trong Thầy
và Thầy ở trong các con” (c.20).
Lúc bấy giờ
các môn đệ có hiểu được ý của lời Chúa nói không? Không! Với thời gian họ sẽ
hiểu biết và cảm nghiệm được. Nhưng ở đây có hai điều mà họ đã biết và hiểu về
những ngày ở tương lai: Thần Khí Thiên
Chúa ngự xuống trên Chúa Giêsu dưới dạng chim bồ câu (Mt 3:16). Thần Khí đó
đã ở lại với Ngài và thể hiện qua những phép lạ, những việc làm đầy kinh ngạc
và giáo huấn của Ngài.
Chúa Giêsu đã
hứa sẽ có những việc lạ lùng xảy ra. Và đúng vậy, ít tuần lễ sau họ đã nhận ra
là những lời hứa đó đã ứng nghiệm. Môn đệ Phêrô gọi những việc đó là “quà tặng”
được Chúa ban cho những kẻ trước kia đã chối từ Chúa Kitô nhưng sau này đã đầu
hàng, qui phục và ăn năn thống hối nhân danh Chúa (Cv 2:36-38). Những lúc họ
gặp trắc trở và bị chìm đắm trong hoàn cảnh hoàn toàn đen tối dày đặc, thì như
đã hứa, Thiên Chúa sẽ xây “nhà” trong họ và ở đó với họ. Họ sẽ không bị cô đơn!
Môn đệ Phaolô
về sau đã xác định sự hiện diện của “Đấng Bảo Trợ” trong thư gửi tín hữu Roma chương
8: “Nhưng anh em không sống theo tính xác
thịt mà sống theo Thần Khí vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em. Ai
không có Thần Khí của Chúa Kitô, thì không thuộc về Chúa Kitô. (c.9).
Sau này Ngài
còn xác nhận: “Nhưng nếu Thần Khí của Đấng đã
làm cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho
Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết cũng sẽ dùng Thần Khí của Ngài ngự trong anh em
để làm cho thân xác phải chết của anh em được sống. (c.11).
Thánh Phaolô thì diễn tả như vậy, nhưng qua Gioan 17: 22-23 thì sự thân tình đó
được biểu lộ một cách tuyệt đối thân thiết, đầm ấm và chí tình giữa Cha, Con và
Chúng Ta. Đấng Bảo Trợ” là Thần Khí Chúa sẽ ngự trị hoàn toàn không thiếu sót
gì trong chúng ta và hướng dẫn chúng ta đến niềm vui viên mãn nơi Vương Quốc
Nước Trời của Cha chúng ta.
Quà tặng tinh
tuyền này của Chúa Cha, Chúa Con sẽ biến mọi sự thành đặc thù khác biệt. Sự
hiện diện của Thần Khí này giúp ta vượt qua mọi tối tăm sợ hãi, ban cho chúng
ta sức mạnh, tình yêu thương và biết tự chủ (2Tm 1:7). Sự nhận biết này giúp
chúng ta hiểu rõ lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ vào những giờ phút cuối cùng
như trong Matthêu 28:20: “Và đây, Thầy ở
cùng các con cho đến tận thế.” Ngoài ra, các môn đệ đã từng đi sát cạnh
Chúa Giêsu cả 3 năm rưỡi trời trên những con đường bụi bặm ở Galilê, hẳn phải
hiểu ý Chúa. Bây giờ Chúa đồng hành với họ, bất cứ họ ở đâu. Đúng vậy, ngày nay
bất cứ lúc nào chúng ta ở đâu cũng đều có Chúa hiện diện.
Luca, thánh
sử và là tác giả của Công Vụ Tông Đồ đã xác định yếu tố chính tạo sức mạnh cho
các Tông Đồ tiên khởi theo Chúa Giêsu không chỉ để đối phó với một thế giới thù
nghịch mà còn là chứng tá cực kỳ can đảm và uy dũng cho niềm tin như họ đã biểu
hiện trong Cv 17:6, “Những người làm cho thế giới đảo lộn”. Luca đã nhắc đến tên Thần Khí 15 lần trong Tin
Mừng của ông và 55 lần trong Sách Công Vụ Tông Đồ.
Cầu nguyện là một cách sống
Điều thứ ba
nên nhớ là các môn đệ tiên khởi của Chúa Giêsu đã coi cầu nguyện là một cách sống. Nếu Thần Khí là cái kim sinh động
xuyên suốt sách Công Vụ Tông Đồ thì cầu nguyện là sợi chỉ khâu chặt tấm vải của
Giáo Hội sơ khai với Thiên Chúa và loài người. Sách khởi đầu bằng việc các tông
đồ và các đệ tử cùng nhau cầu nguyện ở lầu trên tại Jerusalem. Phần còn lại là
lịch sử.
Sau này khi
Phêrô và Gioan hiểu ra thì loan truyền ý nghĩa đó ra ngoài; Giáo Hội cùng nhau
họp lại và cầu nguyện để xin giải thoát. Họ tụ họp nhau cầu nguyện khi bị chống
đối: “Giờ
đây, lạy Chúa! xin để ý đến những lời hăm dọa của họ, và cho các tôi tớ Ngài
đây được nói Lời Ngài với tất cả sức dũng mạnh. Xin giơ tay chữa lành và thực
hiện những dấu lạ điềm thiêng, nhân danh tôi tớ thánh của Ngài là Chúa Giêsu”
(Cv 4:29-30). Khi họ cầu nguyện xong thì “nơi họ tụ họp nhau bị rung chuyển, ai nấy
đều được tràn đầy Thánh Thần và họ bắt đầu mạnh dạn nói Lời Thiên Chúa”.
(C.31).
Chúng ta thử
tưởng tượng câu chuyện của hai người với những bối cảnh và môi trường hoàn toàn
khác biệt. Họ cầu nguyện trước cùng một ngai uy linh của Thiên Chúa là đấng
muốn phát triển gia nghiệp của mình trên mặt đất giữa dân Do Thái và dân ngoại.
Cornelius là
quan đội trưởng La Mã “luôn luôn cầu
nguyện cùng Thiên Chúa” (Cv 10:2). Tiếp theo mấy câu sau, chúng ta thấy nói
Phêrô cầu nguyện ở trên sân thượng (c.9).
Việc ưu tiên cầu nguyện này giúp mọi người và
các Tông Đồ chuẩn bị mở rộng Giáo Hội trong đó có cả những tín hữu dân ngoại
qua sự giúp đỡ của Thiên Chúa. Cầu nguyện như là cái chuông để trước cửa nhà!
Cầu nguyện
không phải luôn luôn giúp ta tránh khỏi những phiền toái của thế gian, nhưng
cho chúng ta một vị thế trước ngai thiêng của Cha chúng ta trên thiên đàng. Lời
nói cuối cùng của ông Stêphanô thấy trong sách Cv
7:59-60: “Và họ ném đá Stêphanô đang lúc ông cầu xin Thiên Chúa rằng: “Lạy Chúa
Giesu, xin nhận lấy hồn con”. Đoạn ông quì gối và lớn tiếng kêu: “Lạy Chúa, xin
đừng chấp họ tội này”. Nói thế rồi ông an nghỉ…”.
Stêphanô đã
lặp lại Lời Chúa nói trên đồi Golgotha tha tội cho kẻ đã giết Chúa trước khi Ngài
phó thác linh hồn cho Thiên Chúa (Lc 23:34,46).
Lời nói sau
cùng của Stêphanô chứng tỏ ông là chứng nhân can đảm và uy dũng, cho thấy ông ấy không cô đơn. Sách Công Vụ Tông Đồ
7:54-56 vẽ lên bức tranh hiệp nhất giữa ngai Thiên Chúa và chúng ta trong thời
đại đen tối này: “Nhưng Stêphanô, đầy ơn Chúa Thánh Thần, mắt đăm đăm nhìn trời
thấy vinh quang Thiên Chúa và Chúa Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa, và nói, ‘Kìa, tôi thấy trời mở ra và Con Người đứng
bên hữu Thiên Chúa!’”
Không chỉ đối phó với cuộc
sống mà còn sống chính cuộc sống của Chúa Kitô
Phêrô và
Gioan bị điệu ra trước tòa để làm chứng về Chúa Giêsu Kitô là Đấng Thiên Sai.
Chính quyền vì nhìn phương cách tố tụng với con mắt thế tục nên nghĩ rằng họ có
thể buộc các ông phải chấp nhận là mình có tội.
Nhưng hãy đọc
bản tố tụng của tòa ghi trong Cv 4:13: “Họ thấy ông Phêrô và Gioan mạnh dạn và
biết rằng hai ông là những người bình dân và không có chữ nghĩa, nên ngạc
nhiên. Họ nhận ra hai ông là những người
từng đi theo Chúa Giêsu”.
Những người
này hoàn toàn vâng phục Con Thiên Chúa. Họ tin vào những lời hứa của Thiên
Chúa. Giống như Thiên Chúa, họ coi mọi sư rõ ràng như đã xẩy ra. Họ không chỉ
bước trước Thiên Chúa mà còn bước cùng Thiên Chúa và hàn huyên với Ngài. Và Ngài
rất hài lòng!
Những sự việc
đó giúp họ - như họ đã từng trải qua nhiều điều tương tự - không chỉ để đối
phó với cuộc sống, mà còn sống lại chính cuộc sống của Chúa Kitô nơi con người
họ. Chúng ta hãy cùng nhau theo gương các môn đệ tiên khởi của Chúa Kitô như
họ đã theo Chúa, để Chúa thực sự dẫn đưa chúng ta từ nội tâm sâu thẳm hầu cho
niềm tin của chúng ta được bảo đảm hoàn toàn.
Đó là sự khác biệt giữa 5 xu và 10 xu của hai bé gái!
Fleming
Island, Florida
March 9, 2021
NTC - Hẹn
gặp lại