(dịch thơ của Paul Claudel: La
Vierge à Midi) (1)
Cũng một tâm tình chiêm ngắm trước tượng Mẹ Maria, xin mời hát => SỐNG BÊN MẸ Thơ nhạc Đỗ Quang Vinh Tiếng hát: Nhật Hạ
Thánh đường mở cửa giữa ban trưa
Con bước vào, con thưa với Mẹ
Lạy Mẹ Chúa Kitô!
Con đến với lòng con thơ đơn sơ nhỏ bé,
Không phải con đến là để nguyện cầu,
Bởi lễ vật hiến dâng, con nào đâu có,
Con cũng chẳng có gì khốn khó mà xin,
Con chỉ muốn bên Mẹ, được ngắm nhìn mà
thôi!
Được ngắm Mẹ, con khóc lên, vì ôi, một trời
hạnh phúc!
Con biêt con là con của Mẹ, Mẹ đứng ở đây.
Chỉ cần ngắm Mẹ phút giây,
Thấy thờì gian đã dừng ngay tức thời.
Tiếng chuông chính ngọ buông rơi
Thời gian đứng lại vang lời ngợi khen!
Maria, Mẹ ơi, con đang ở ngay bên cạnh Mẹ,
Ngay chốn này, nơi có Mẹ đứng đây.
Ben. Đỗ Quang Vinh
Attachment_pdf
(1) Chú thích
* Paul Claudel sinh
ngày 6 tháng 8 năm 1868, và mất tại Paris ngày 23 tháng 2 năm 1955, tại
Villeneuve-sur-Fère, một làng nhỏ nằm về phía bắc Paris, trong một gia
đình nông dân và viên chức chính phủ. Mẹ ông, cũng xuất thân trong một gia
đình nông dân Công giáo vùng Champagne vốn có những người dâng mình cho Chúa
làm linh mục.
* Ban đầu ông nghiêm túc cân nhắc việc vào một tu viện
Benedictine, nhưng cuối cùng lại bắt đầu sự nghiệp trong đoàn ngoại giao Pháp
(1893 – 1936). Là phó lãnh sự đầu tiên ở New York sau đó ở Boston. Là lãnh sự
Pháp tại Trung Quốc ở Thượng Hải, Phúc Châu, Thiên Tân, lãnh sự tại Praha,
Frankfurt & Main, Hamburg, Rome, bộ trưởng đặc mệnh toàn quyền tại Rio de
Janeiro (1917–1918), Copenhagen (1920), đại sứ tại Tokyo (1921-1927),
Washington DC (1928–1933), và Brussels (1933–1936). Trong khi phục vụ ở Brazil
thời thế chiến thứ nhất, ông giám sát việc tiếp tục cung cấp thực phẩm từ Nam
Mỹ cho Pháp.
* Ở tuổi thiếu niên,
ông chưa tin có Thiên Chúa. Sau này ở tuổi 18, ông trải qua một cuộc hoán cải
đột ngột vào ngày lễ Giáng sinh năm 1886 trong khi nghe một ca đoàn hát Kinh
Chiều trọng thể tại nhà thờ Đức Bà Paris, Khi ấy, ông đứng nơi trụ có đặt tượng
Đức Mẹ ẵm Chúa Giêsu Hài Đồng. Bức tượng là một tác phẩm nghệ thuật của thế kỷ
14. Lúc ca đoàn xướng kinh MAGNIFICAT, bỗng một biến cố phi thường xảy ra nơi
nội tâm Paul Claudel, Ông kể:
“Trong phút chốc trái
tim tôi đã xúc động và tôi đã tin. Tôi tin rằng, với một sức mạnh
kiên vững như vậy, với sự bùng trỗi dậy trong tôi, với một niềm tin mạnh
mẽ như vậy, với một sự chắc chắn như vậy, không còn chỗ cho bất kỳ loại nghi
ngờ nào, kể từ đó tất cả các cuốn sách, tất cả mọi lý lẽ, tất cả
những tình huống bất chợt xảy đến trong cuộc sống bận rộn, không thể nào
lay chuyển được niềm tin của tôi, tất cả thực sự đã chạm đến đức
tin của tôi. Tôi đột nhiên có cảm giác đau lòng về sự ngây thơ, về thời thơ ấu
vĩnh cửu của Chúa, một sự mặc khải không thể nào sánh được.
Như vẫn có thói quen
thường làm, tôi cố gắng hồi tưởng lại những phút sau khoảnh khắc phi thường
này, tôi tìm thấy những yếu tố sau đây, tuy chỉ là một tia chớp, nhưng
là một vũ khí duy nhất, mà Chúa quan phòng đã sử dụng để tác động đến
tôi và cuối cùng là mở rộng trái tim của một đứa trẻ đáng thương đang
tuyệt vọng: "Hạnh phúc biết bao cho người có đức tin"! Đúng rồi! Chúa
hiện hữu, Ngài đang có đó. Ngài là một người nào đó, Ngài là một con người như
cá nhân tôi đây! Ngài yêu tôi, Ngài gọi tôi." Tôi đã khóc nức nở, nước mắt
đã tuôn trào, bài thánh ca ADESTE dịu dàng làm tôi thêm xúc động”
(En un instant mon
cœur fut touché et je crus. Je crus, d'une telle force d'adhésion, d'un tel
soulèvement de tout mon être, d'une conviction si puissante, d'une telle
certitude ne laissant place à aucune espèce de doute, que, depuis, tous les
livres, tous les raisonnements, tous les hasards d'une vie agitée, n'ont pu
ébranler ma foi, ni, à vrai dire, la toucher. J'avais eu tout à coup le
sentiment déchirant de l'innocence, de l'éternelle enfance de Dieu, une
révélation ineffable.
En essayant, comme je
l’ai fait souvent, de reconstituer les minutes qui suivirent cet instant
extraordinaire, je retrouve les éléments suivants qui, cependant, ne formaient
qu’un seul éclair, une seule arme, dont la Providence divine se servait pour
atteindre et s’ouvrir enfin le cœur d’un pauvre enfant désespéré: «Que les gens
qui croient sont heureux! Si c’était vrai, pourtant! C’est vrai! Dieu existe,
Il est là. C’est quelqu’un, c’est un être aussi personnel que moi! Il m’aime,
Il m’appelle» Les larmes et les sanglots étaient venus et le chant si tendre de
l’Adeste ajoutait encore à mon émotion.)
* Ông sáng tác
bài thơ La Vierge à Midi vào những năm đầu của thế chiến thứ nhất (1914 –
1918). Ông thưa lên cùng Đức Trinh Nữ Maria, mà theo ông Mẹ đã cứu vãn nước
Pháp trong thế chiến thứ I. Thi sĩ sau này được vào Hàn Lâm Viện cám
ơn Đức Trinh Nữ đã can dự vào lúc mà mọi sự coi như hoàn toàn thất bại.
Cũng một tâm tình
chiêm ngắm trước tượng Mẹ Maria, xin mời hát => SỐNG
BÊN MẸ Thơ nhạc Đỗ Quang Vinh Tiếng hát: Nhật Hạ