Bác sĩ Nguyễn
Tiến Cảnh, MD
Theo truyền
thống, Giáo Hội dành tháng 11 hàng năm để mửng lễ Các Thánh và kính nhớ các
linh hồn. Chúng ta thử tìm hiểu thế nào là các Thánh và các linh hồn.
CÁC
THÁNH
“Phúc cho những ai có lòng thanh sạch vì họ sẽ được nhìn thấy
Thiên Chúa…”
Ngày mồng 1 tháng 11 là ngày nhắc nhở
chúng ta chăm chú suy niệm và cầu nguyện cùng các thánh và các chân phước.
Đây cũng là dịp để chúng ta suy nghĩ về
quan niệm Thánh và Chân Phước mà Thánh GH Gioan Phaolo II đã đưa ra. Vì cách “Nhìn và quan niệm” về thánh đã được thay đổi, mà trong 26 năm giáo hoàng, Gioan
Phaolo II đã cho chúng ta 1,338 chân phước và 482 thánh. Họ là những người bạn
đồng hành, đồng vui cộng khổ. Họ là những người cả nam lẫn nữ đã viết lên những
trang sử mới về cuộc sống của họ và của biết bao nhiêu người khác. Đức Gioan
Phaolo II đã viết sứ điệp như sau: Sự thánh
đức không phải là tặng vật chỉ dành riêng cho một số ít người. Tất cả chúng ta
ai cũng có thể khát khao ước mong
được điều đó, bởi nó là một mục đích nằm trong khả năng của chúng ta –một bài
học vĩ đại được xác quyết bởi Công Đồng Vatican II, và kêu gọi tất cả mọi người
phải nên thánh (Lumen Gentium/Ánh Sáng Muôn Dân).
Thánh đức theo kiểu Gioan Phaolo II là
thế nào? Đó là sống thánh thiện hàng ngày. Vị thánh là người thực sự và cụ thể
bằng xương bằng thịt như mọi người mà Gioan Phaolo II đã thường xuyên nhắc đi
nhắc lại cho chúng ta. Cuộc sống của những con người ấy là bằng chứng, đã lôi
kéo, hấp dẫn chúng ta, dạy bảo chúng ta, đã vẽ nên toàn thể hình ảnh chúa Kito
thể hiện bằng một cảm nghiệm trong suốt của các ngài. Theo Gioan Phaolo II,
việc kêu gọi nên thánh không trừ bỏ một ai; nó cũng không phải là đặc quyền đặc
lợi của một nhân tài kiệt xuất nào cả.
Những “Vì Sao” thực sự của Gioan Phaolo
II là những vị thánh và chân phước đã không chủ trương cố gắng để được người
đời coi là anh hùng, làm cho người ta phải hết hồn, kinh ngạc và cảm phục.
Thánh là một người bình thường như mọi người bình thường, một bác sĩ, một y tá,
một sinh viên đại học, một thầy giáo, một lái buôn, một nông dân, một thợ lao
động, một bà sơ, một tên nô lệ, một linh mục, một tù nhân trong trại cải tạo
cs, một cặp vợ chồng trẻ, là bạn học của chúng ta….
Trong Giáo Hội có người phê bình Gioan
Phao lo II là đã làm “lạm phát” thánh và chân phước. Tôi không đồng ý với ý
kiến đó, nhất là sau một thời gian tiếp súc nhiều với giới trẻ, sinh viên. Họ là những thành phần đã ước mong hầu như
tuyệt vọng để trở thành những anh hùng, gương mẫu, chứng nhân của niềm tin và
nhân đức mà thế giới thể thao, màn ảnh, khoa học và âm nhạc đã không thể cung
ứng được cho họ.
Thế giới ngày nay cần chứng nhân hơn là
thầy dạy, hay nói rõ hơn “Cần làm hơn là nói”. Khi quyết định phong
nhiều Thánh và Chân Phước, Gioan Phaolo II muốn đưa ra những hình ảnh thánh mà
bất cứ ai cũng có thể làm được. Nó là bạn đồng hành với ta trong suốt cuộc hành
trình.
Karol Wojtyla đã là một chứng nhân phi
thường. Qua những cố gắng anh hùng, đặc biệt những đau khổ ngài đã chịu, ngài
đã thông truyền sứ điệp Tin Mừng đầy uy dũng cho tất cả chúng ta ngày nay. Một
phần lớn kết quả của sứ điệp của ngài là vì ngài đã có những đám “mây trời chứng nhân” bao phủ bên quanh
ngài và cho ngài thêm nhiều sức mạnh. Họ
không là ai cả, mà là những chân phước và các thánh đang ở trên thiên đàng.
CÁC LINH HỒN
Tại sao người Kito hữu mừng nhớ những
người đã chết trong tháng 11? Phong tục
cổ truyền Việt Nam chúng ta cũng có tục lệ này hàng năm.
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tạo mộ hội là đạp thanh…
(Kiều)
Và ngày lễ cô hồn tưởng nhớ những linh
hồn mồ côi cũng vào tháng 11. Ở Mỹ có ngày lễ Halloween cũng tương tự như vậy.
Chúng tôi không nói về những phong tục thế trần, chỉ xin nói về đạo của chúng
ta.
Đan viện phụ của nhà dòng Biển Đức Cluny
tại Pháp đã đưa ra ý kiến lễ các linh hồn vào năm 998 cho những người trong
dòng cũa mình. Sau này, vào thế kỷ XIV, Rome đã chấp nhận lễ và cho phép được
mừng trên toàn Giáo Hội. Đây là lễ tưởng nhớ tất cả các tín hữu đã qua đời.
Tháng 11 hàng năm đã được chọn là lễ mừng tất cả các thánh và tưởng nhớ tất cả
các linh hồn. Các linh hồn là tất cả mọi người trong gia đình và thân nhân,
người láng giếng và bạn bè, ông bà tổ tiên chúng ta…Họ là những “đám mây chứng
nhân” đã cầm cành lá vạn tuế, nhận triều thiên Thiên Chúa ban và chia sẻ những
quí vật đó cho chúng ta khi còn ở trần thế, và bây giờ vẫn tiếp tuc làm như vậy
trước ngai vàng Chiên Thiên Chúa trên thiên quốc.
Do đó, họ thực sự là những người được
chúc phúc và là lý do để chúng ta hy vọng, để tin, để chiến đấu và để sống. Lễ
các linh hồn và tháng 11 là nguồn an ủi cho mỗi người chúng ta. Giáo lý về Các
Thánh Thông Công giúp chúng ta cảm thấy mình luôn luôn gần gũi những người đã
chết, đồng thời cho chúng ta thêm hy vọng trong những lúc buồn phiền chán nản.
Chỉ có các linh hồn trong luyện ngục mới nhìn thấy rõ ràng hơn những điều mà
chúng ta đứng từ xa phỏng đoán. Họ thực sự đã đạt tới đời sống vĩnh cửu và vòng
tay yêu mến của chúa Giesu, nhưng chưa sát gần đủ để được Chúa ôm vào lòng.
Những cay đắng về sự chết đã được rũ sạch, nhưng họ vẫn còn cảm thấy nỗi đau về
tình yêu mà chỉ có sự hiệp thông trọn vẹn với chúa Giesu mới có thể hàn gắn
được. Tiến trình hàn gắn này phải được hoàn thành bởi chính tình yêu mà có lúc
nó đã ngăn cách họ với Chúa. Lời cầu nguyện của chúng ta cho những người đã quá
cố sẽ làm tăng niềm tin và tình yêu giữa chúng ta và họ, nó nâng lòng chúng ta
lên để chúng ta có thể ước mong yêu mến Thiên Chúa nhiều hơn. Trong một suy
niệm có tính cá nhân nhưng rất sống động về cái chết gần kề vào năm 1996, Hồng
y Joseph Bernadin của Chicago đã đưa ra một nhận định như sau trong tập sách
của ngài với tựa đề “Tặng vật bình an / The Gift of peace”:
“Nhiều
người đã yêu cầu tôi nói về thiên đàng và đời sau. Tôi chỉ mỉm cười, bởi vì
thực sự tôi có biết gì hơn họ đâu. Tuy nhiên, khi một bạn trẻ hỏi tôi xem tôi
có để ý kết hợp trước với Chúa và những người đã chết trước tôi không, thì tôi
liên tưởng ngay đến những gì tôi đã nói trước trong quyển sách này của tôi.
“Lần
đầu tiên tôi đi du lịch với mẹ và chị tôi về quê nhà của bố mẹ tôi là Tonadico
di Primiero, ở phía Bắc nước Ý, tôi có cảm tưởng như mình đã ở đó trước rồi.
Sau nhiều năm nhìn ngắm những tấm hình trong tập album của mẹ tôi, tôi đã quen
với những ngọn núi, mảnh đất, những ngôi nhà và người dân ở đó. Khi tôi vừa mới
bước vào cái thung lũng, tôi liền kêu lên: “Chúa tôi! Tôi biết chỗ này rồi. Tôi
đang ở nhà.” Cùng một cách đó, tôi nghĩ là bước qua đời sống trần thế để vào
đời sống vĩnh cửu cũng sẽ giống như vậy thôi. Tôi sẽ ở nhà tôi.”
“Chúng
ta hãy thử làm một cuộc hành hương ở dương thế này với những ý tưởng về thiên
đàng đầy ắp trong đầu đến nỗi khi chúng ta bước qua cái chết để đi vào đời sống
vĩnh cửu, những hình ảnh mà chúng ta nhìn thấy có thể sẽ không xa lạ hay khác
gì những hình ảnh mà chúng ta đã có trong trí chúng ta.
“Chúng
ta hãy cầu nguyện để chúng ta có thể nói được rằng: “Lạy Chúa tôi! Tôi biết chỗ
này rồi. Tôi đang ở nhà tôi.”
Phải chăng những tư tưởng đó là những tư
tưởng mà chúng ta đã hàng ngày thực hành để nên thánh khi còn trên bước đường
hành hương nơi dương thế?
Fleming
Island, Florida
Nov. 1, 2020
NTC