Chủ nhật
thứ 29, Năm A, 18
tháng 10 năm 2020.
Isaia 45: 1, 4-6 ; Thánh vịnh 96: 1, 3, 4-5, 7-8,
1 Tessalônica 1: 1-5; Tin mừng: Mátthêu 22:
15-21
Ngay khi
Bức tường Berlin sụp đổ, đánh dấu sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh, thì một sự
chia rẽ đáng ngại khác trong thế giới của chúng ta đã xuất hiện. Sự phân
chia mới này là giữa thế giới Hồi giáo và những gì đã từng là phương Tây Kitô
giáo. Thế giới Hồi giáo đã trải qua một sự phát triển phi thường theo não
trạng chính thống cực đoan. Nhiều quốc gia ở đó đã áp đặt hoặc đang tìm
cách áp đặt luật của Kinh Koran như luật của nhà nước. Algeria ở Bắc Phi,
ngay ngoài khơi cực nam của châu Âu, hiện đang là hiện trường của một cuộc xung
đột Đông-Tây tàn sát. Một số quốc gia châu Âu cảm thấy bị đe dọa, đặc biệt
là Pháp, với dân số Hồi giáo lớn và quan hệ lịch sử chặt chẽ với
Algeria. Người Hồi giáo yêu cầu nữ sinh của họ được phép đeo mạng che mặt
trong các trường công lập của Pháp. Thật kỳ lạ khi mọi người thường áp dụng
những thái độ và chiến lược của đối thủ. Chủ nghĩa chính thống cực đoan Hồi
giáo ở các nước Ả Rập đã được đối chọi lại bằng một “động thái chuyển sang cánh
hữu” đáng chú ý ở các nước phương Tây. Giờ đây, ngay cả các đảng chính thống
ôn hòa hơn cũng đang kêu gọi thắt chặt luật nhập cư. Ít nhất thì có thể
nói rằng những dấu hiệu cho tương lai là đáng lo ngại.
Xung đột
giữa tôn giáo và nhà nước thế tục không phải là mới. Câu chuyện về phương
Tây Kitô giáo phần lớn là lịch sử của cuộc xung đột kiểu này. Trong vài thế
kỷ đầu tiên tồn tại, Kitô giáo bị nhà nước đàn áp dữ dội, để lại dấu vết đẫm
máu của các vị tử đạo. Tất cả điều đó đã thay đổi với sự theo đạo của
hoàng đế Constantinô. Chẳng bao lâu sau Thiên chúa giáo trở thành quốc
giáo. Bây giờ chiếc ủng đã ở bên chân kia. Đỉnh cao của quyền lực tôn
giáo đã diễn ra tại Canossa vào giữa thời Trung cổ khi một hoàng đế bị vạ tuyệt
thông phải quỳ trong tuyết và khiêm tốn phục tùng giáo hoàng để lấy lại vương
miện của mình. Trong cuộc thi đấu giữa Xêda và Thiên Chúa, vòng thi đấu dứt
khoát đã nghiêng về Thiên Chúa. Trong suốt thời Trung cổ, Giáo Hội đã mở rộng
phạm vi ảnh hưởng của mình sang lĩnh vực thế tục. Với sự suy sụp của Kitô
giáo vào thế kỷ XVI, tiến trình bắt đầu đảo ngược. Cách mạng Pháp đánh dấu
một bước ngoặt quyết định có lợi cho nhà nước. Napoléon đã đưa ra quan điểm
đáng kể, khi ông lấy chiếc vương miện hoàng gia từ tay Giáo hoàng và tự đội nó
lên đầu mình. Kể từ đó nhà nước lấy lại đất từng được Giáo Hội tuyên bố là
của mình. Và Giáo Hội đã từ bỏ ảnh hưởng trước kia của mình một cách miễn
cưỡng. Chiếc ủng đã đổi chân một lần nữa.
Phúc âm
hôm nay, với câu nói nổi tiếng “Hãy trả cho Xêda những điều thuộc về Xêda và
cho Thiên Chúa những điều thuộc về Thiên Chúa” có một tính thời sự đặc biệt
trong thế giới của chúng ta. Trong khi nguyên tắc đó rõ ràng và không có
gì là hàm hồ, việc áp dụng nó trong các trường hợp cụ thể lại là một vấn đề
khác. Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo chỉ ra ba trường hợp mà công dân,
theo lương tâm, có nghĩa vụ từ chối không tuân theo chính quyền dân sự. Đó
là khi các luật lệ "trái với trật tự đạo đức, trái với các quyền cơ bản của
con người và trái những lời dạy của Tin mừng”. Nguyên tắc là rõ ràng. Tuy
nhiên, ứng dụng của nó có thể không đơn giản như vậy khi có sự xung đột rõ ràng
về quyền lợi.
Sự phức tạp
của những vấn đề này có thể khiến chúng trở thành những chủ đề không phù hợp với
bục giảng. Điều mà các nhà giảng thuyết có thể và phải làm, là khuyên các
tín hữu về nghĩa vụ cư xử của Kitô hữu trong mọi hoàn cảnh. Cho dù họ có
niềm tin sâu sắc đến đâu hay cho dù họ tán thành với nguyên tắc này của mình nồng
nhiệt đến đâu, họ không bao giờ được dùng đến bạo lực. Và điều đó bao gồm
cả việc không được dùng đến sự đe dọa dưới mọi hình thức. Các cuộc thập tự
chinh mang tính cơ bắp, dù là thời hiện đại hay thời trung cổ, đều gây ra những
tác hại không thể sửa chữa được. Mục đích không bao giờ biện minh cho
phương tiện. Chúng ta đang sống trong một thế giới đa nguyên. Có những
người khác mà các nguyên tắc và niềm tin của họ hoàn
toàn khác với nguyên tắc và niềm tin của chúng ta. Nhà nước cũng phải có
nhận thức về những nguyên tắc và niềm tin này. Phương pháp duy nhất của
chúng ta là thuyết phục. Thuyết phục luôn là một nghệ thuật nhẹ
nhàng. Tốt nhất chúng ta nên thuyết phục bằng cách sống trọn vẹn đời sống Kitô
giáo của mình, luôn nhớ rằng “sự giận dữ của con người không làm ra công lý của
Thiên Chúa” (Liam Swords).
Người thu thuế tuân thủ lề luật.
Trước khi
được Chúa Giêsu Kitô kêu gọi trở thành một trong mười hai Sứ đồ của Ngài, Thánh
Matthêu là một người thu thuế làm việc tại một cơ quan hải quan, một nơi nào đó
ở phía bắc Galilê. Vì nghề này đòi hỏi ông phải có khả năng đọc, viết và đặc
biệt là ghi chép, nên ông sẽ sử dụng tốt những kỹ năng này để viết tường thuật Tin
mừng của mình về sứ vụ của Chúa Giêsu. Phong cách văn chương của ông, với
tư cách là một tác giả Tin Mừng, có thể không tự nhiên bằng văn phong của Thánh
Luca, nhưng chắc chắn rằng đoạn trích Tin mừng mà bạn vừa nghe là thực sự ấn tượng. Câu
hỏi đặt ra cho Chúa Giêsu, về việc liệu người Do Thái có được phép cống nạp cho
Xêda hay không, cho thấy một cái nhìn rõ ràng về tâm trí và chiến lược của những
người Pharisiêu. Họ đang cố gắng đưa Chúa Giêsu
vào một cái bẫy chính trị có thể khiến Ngài phải đối đầu với các nhà cầm quyền
La Mã, những người cai trị Ítraen vào thời điểm đó, hoặc, nếu Ngài thất bại, sẽ
làm mất uy tín của Ngài trước người dân của mình. Để tránh làm nảy sinh
nghi ngờ về ý định của mình, họ quyết định bản thân mình không can dự
vào. Thay vào đó, họ đã gửi một số môn đồ của họ đến với Chúa Kitô. Rất
có thể những người lãnh đạo Pharisiêu đứng phía sau vì họ muốn những người theo
vua Hêrốt, là người được Lamã bổ nhiệm làm một trong tứ đầu chế xứ Galilê, cũng
tham gia vào âm mưu chống lại Chúa Giêsu, mặc dù những người Hêrốt công khai chủ
trương hợp tác với Người La Mã, thường là kẻ thù cay đắng nhất của nhóm người
Pharisiêu.
Nhóm người
này có những lời tôn vinh Chúa Giêsu nhưng đầy ẩn ý chế nhạo, họ đề cập đến sự
trung thực của Ngài, sự không sợ hãi của Ngài, sự coi thường địa vị của những
người mà ngài gặp phải, tất cả những lời tâng bốc này đến từ những người thường
thù địch với Ngài chỉ làm nổi bật sự giả dối trong lời khen ngợi của họ. Sau
đó, cái bẫy được giăng ra: “Vậy xin nói
cho chúng tôi hay: Thầy nghĩ thế nào? Ðược phép nộp thuế cho hoàng đế hay
không?” Nếu Chúa Giêsu trả lời: “Hãy nộp thuế”, thì Ngài sẽ bị buộc tội
cộng tác với những tên La Mã đàn áp, và sẽ phải gánh chịu sự khinh miệt của những
người Do Thái bình thường, mỗi người phải nộp thuế thân, từ mười hai tuổi đối với
phụ nữ và mười bốn tuổi dành cho đàn ông. Còn nếu Ngài chủ trương không nộp
thuế, Ngài có thể bị chính quyền La Mã bắt giữ vì tội xúi giục nổi loạn. Tuy
nhiên, câu trả lời của Chúa Giêsu, “Hãy
trả cho Xêda những thứ thuộc về Xêda, và cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên
Chúa,” khiến họ bực tức và lẻn đi.
Những
tuyên bố khác nhau về Thiên Chúa và nhà nước được để lại cho mỗi cá nhân quyết
định bằng lương tâm sáng suốt của mình, như chúng vẫn là như thế đến tận ngày
nay. Nhưng vẫn còn đó lời cảnh báo của Chúa Giêsu, trong Bài giảng trên
núi, rằng “Không ai có thể phục vụ hai chủ; người
ta không thể làm nô lệ của cả Thiên Chúa và của cải” (Mátthêu 6,24). Sự
giàu có trong thời kỳ đầu Cựu ước được xem là do Thiên Chúa tạo ra, và ban cho
các tộc trưởng, vua và các nhà lãnh đạo có vai trò trách nhiệm đặc biệt. Sau
đó, sự giàu có không còn được coi là món quà của Thiên Chúa nữa.
“Khốn cho những kẻ đầu cơ nhà liền nhà, ruộng nối ruộng từng
thôi cho kỳ hết chỗ, để mình độc quyền cư trú trên toàn nội địa” Isaia cảnh cáo (Isaia 5: 8), và chính Chúa Giêsu đã nói:
“Khốn cho các ngươi, những kẻ giàu có! Vì
các ngươi hiện đã có phần an ủi” (Luca 6:24). Thế giới và tất cả các
nguồn lực của nó được tạo ra bởi Thiên Chúa vì lợi ích của tất cả loài người,
không có ngoại lệ và điều này thường phải đạt được cùng với quyền đối với
tài sản tư nhân, cho dù doanh nghiệp cá nhân được thừa kế hay mua lại. Nhiệm
vụ của chính phủ là tìm kiếm sự cân bằng giữa các chính sách sẽ giúp ích cho lợi
ích chung của mọi công dân. Và thuế vẫn là một trong những phương tiện phổ
biến nhất để đạt được điều này.
Padraig
McCarthy ghi chú: Đồng xu có hình ảnh của Tiberius Caesar có dòng chữ:
“Augustus Ti (berius) Caesar Divi Aug (usti) F (ilius)” - The August (= được
thánh hiến, đáng kính) Tiberius Caesar, con trai của Augustus Thần thánh”. Tiberius là Con trai của một vị thần! Ở
mặt bên kia có dòng chữ “Pontif (ex) Maxim (us)” = “Giáo Chủ Vĩ Đại Nhất”: Thầy Cả Thượng Phẩm!
Như thế
Xêda tự coi mình, và được thần dân chấp nhận, là Thần thánh, Giáo Chủ Vĩ Đại, Thầy
Cả Thượng Phẩm mà mọi người phải thần phục, tôn thờ. Đây là điều hoàn toàn trái
ngược với niềm tin của người Do thái. Trọng tâm của giao ước, lời hứa cứu chuộc
của Thiên Chúa dành cho dân Ítraen, là “Ta
sẽ kết với chúng Giao ước bình an. Ðó là Giao ước đời đời với chúng. Ta sẽ thiết
lập chúng. Ta sẽ cho chúng nên đông đảo. Ta sẽ đặt thánh điện của Ta ở giữa
chúng cho đến đời đời. Nhà tạm của Ta sẽ ở nơi chúng. Và Ta sẽ là Thiên
Chúa của chúng. Còn chúng, chúng sẽ là dân của Ta. Và các dân tộc sẽ biết
Ta là Yavê Ðấng tác thánh Israel, một khi thánh điện của Ta sẽ ở giữa chúng cho
đến đời đời” (Êdêkien 37: 26-27) một sự hiệp nhất quý giá của Thiên Chúa với
dân Ngài, “Ta sẽ lấy các ngươi làm một
dân thờ Ta và Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi, và các ngươi sẽ biết Ta là yavê,
Thiên Chúa của các ngươi, Ðấng đem các ngươi ra từ dưới ách khổ dịch của Aicập”
(Xuất hành 6: 7).
Chúa Giêsu
đã đảo ngược cái bẫy và bắt các đối thủ của Ngài vào bẫy. Chúa Giêsu không
có đồng tiền La mã nào với Ngài. Ngài không mang bất kỳ đồng xu nào có
hình cái chén (vì làm như thế là trái với luật Do Thái). Mátthêu, Mácô và
Luca xác định cuộc gặp gỡ này xẩy ra trong Đền thờ, nơi tuyệt đối cấm các hình ảnh
chạm khắc. Thay vào đó, Chúa Giêsu yêu cầu những người hỏi Ngài đưa ra đồng
tiền được sử dụng cho “thuế thân”. Từ đồ đạc của họ, họ rút ra đồng xu La
Mã. Vì vậy, họ đang mang theo một đồng xu có hình ảnh cái chén và đó là một
đồng xu của những kẻ áp bức họ. Chính họ đã làm điều trái lề luật. Chúa
Giêsu hỏi hình ảnh của ai trên đồng tiền. Rõ ràng là hình ảnh của Xêda
trên đồng tiền La Mã. Chúa Giêsu bảo họ trả lại cho Xêda những gì thuộc về
Xêda. Ngài không chỉ bảo họ phải nộp thuế hợp pháp cho chính phủ, mà Ngài
còn bảo cho họ biết Ngài không liên quan đến bất cứ thứ gì thuộc về Xêda. Điểm
cuối cùng mà Chúa Giêsu đưa ra là sự kiên quyết của Ngài phải dâng cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa, tức là tất cả!
Khi suy niệm
về các bài đọc hôm nay, chúng ta được nhắc nhở phải dâng cho Thiên Chúa mọi thứ
thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa tạo ra mọi thứ và kiểm soát mọi thứ. Ngay
cả những người cai trị dân sự cũng có thể là công cụ trong tay của Thiên Chúa,
giống như Kyrô, trong bài đọc thứ nhất từ sách Isaia, là người được xức dầu
riêng của Thiên Chúa (Đấng cứu thế, christos), “Này
đây lời Yavê phán với kẻ Người đã xức dầu, với Kyrô, kẻ Ta đã cầm tay phải, để
bắt các dân suy phục nó, và tước giáp bên hông các vua chúa, để mở cho nó cả
hai cánh cửa, khiến không cổng nào còn đóng kín” (Isaia 45, 1). Ngay cả
những nhà lãnh đạo ngoại giáo cũng thuộc về Thiên Chúa và Thiên Chúa có thể sử
dụng họ để mang lại sự thiện hảo cho dân Chúa chọn. Thiên Chúa không gây
ra điều ác, tuy nhiên, Thiên Chúa có thể khiến những điều tốt lành xảy ra ngay
cả trong thời điểm tồi tệ. Sự đáp trả của chúng ta là ca ngợi Thiên Chúa
và dâng lại cho Thiên Chúa tất cả vinh quang vì những vinh quang đó là do Đấng
Tạo Hóa, Đấng Cứu Độ và Đấng Nhân Lành của chúng ta. Thiên Chúa phải được
tôn thờ trên hết. Ngay cả những của lễ của ta dâng cho Thiên Chúa, tự cội
rễ, cũng đến từ bàn tay của Thiên Chúa.
Chúng ta được
nhắc nhở về ba điều cuối cùng trong bài đọc thứ hai trích thư Thánh Phaolô: đức
tin, hy vọng và tình yêu, “nhớ lại sự
nghiệp của lòng tin, công lao của lòng mến, sự kiên nhẫn cậy trông của anh em
trong Chúa” (1 Tessalônica 3). Ba điều này là sự đáp trả của chúng ta trước
sự nhân từ của Thiên Chúa, nhưng chúng cũng bắt nguồn từ Thiên Chúa. Thiên Chúa
đã ban cho chúng ta niềm tin, khả năng tin tưởng. Niềm tin của chúng ta
vào Thiên Chúa chỉ là sự cảm kích của ta khi được trao cơ hội để tin tưởng. Thiên
Chúa đã ban cho ta một lý do để hy vọng, đặc biệt là do sự chết và sự phục sinh
của Chúa Giêsu. Hy vọng của ta cũng là một minh chứng cho việc ta chấp nhận
điều mà Thiên Chúa hứa ban cho ta. Và tình yêu của ta không bắt nguồn từ ta. Ta
không bao giờ có thể yêu, trừ khi ta được yêu trước. Vì vậy, một lần nữa,
tình yêu của ta đối với Thiên Chúa là kết quả của việc chúng ta được Thiên Chúa
yêu thương.
Vậy thì chúng ta phải có niềm tin vào Thiên Chúa, phải đặt hy vọng của mình vào
Thiên Chúa, phải yêu mến Thiên Chúa. Chúng ta trả lại cho Thiên Chúa những gì chỉ là do Thiên Chúa đã ban cho ta. Ta
phải sẵn sàng quy phục tất cả về cho Thiên Chúa vì tất cả những gì ta có là ân
huệ của Thiên Chúa trao ban cho ta.
Xin cho
con luôn quy phục về Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa - tất cả mọi thứ, (ngay
cả tội lỗi của con, dù tội lỗi của con không hề thuộc về Chúa, chúng thuộc về con,
nhưng con thuộc về Chúa, con dâng chúng cho Chúa để được Chúa tha thứ!) Xin
cho con biết ngợi ca Thiên Chúa trong mọi suy nghĩ, lời nói và hành động của
con.
Chúng con
không phải là những đồng tiền vật chất chạm khắc hình ảnh người phàm. Chúng con
là hình ảnh không do con người chạm khắc mà là những con người, nam và nữ, được tạo ra theo hình ảnh và giống Thiên Chúa. Chúng
con thuộc về Chúa, “Hãy trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”.
Phêrô Phạm
Văn Trung biên tập từ:
https://www.associationofcatholicpriests.ie/2020/10/18-october-2020-29th-sunday-year-a/
https://reflectionsbybob.weebly.com/oct-18-2020---29th-sunday-in-ord-time.html