HIỆP
SỐNG TIN MỪNG
LỄ
ĐỨC MẸ LÊN TRỜI A (15/08)
Kh
11,19a; 12,1-6a.10ab; 1 Cr 15,20-26; Lc 1,39-56
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 1,39-56
(39)
Hồi ấy, bà Ma-ri-a lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành
thuộc chi tộc Giuđa. (40) Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà
Ê-li-sa-bét. (41) Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì
đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được tràn đầy Thánh Thần, (42)
liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người
phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. (43) Bởi
đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ? (44) Vì này đây,
tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui
sướng. (45) Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những
gì Người đã nói với em”.(46) Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Linh hồn tôi
ngợi khen Đức Chúa, (47) thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa,
Đấng cứu độ tôi (48) Phận tỳ nữ hèn mọn Người đoái thương nhìn tới.
Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. (49) Đấng Toàn Năng đã
làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn !
(50). Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ
Người. (51) Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí
kiêu căng. (52) Chúa hạ bệ những ai quyền thế. Ngươi nâng cao mọi kẻ
khiêm nhường. (53) Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư. Người giàu có,
lại đuổi về tay trắng. (54) Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
(55) như đã hứa cùng cha ông chúng ta. Vì Người nhớ lại lòng thương
xót, dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời”. (56) Bà
Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.
2. Ý CHÍNH:
Sau lời thưa “xin vâng” với sứ thần
truyền tin, Ngôi Lời đã nhập thể làm người trong lòng trinh nữ Ma-ri-a. Sau đó Mẹ
đã vội vã đem thai nhi Giê-su đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét, làm cho thai nhi Gio-an
nhảy mừng vì đã nhận được ơn cứu độ là được khỏi tội tổ tông truyền. Chúa Thánh
Thần đã tác động làm cho bà Ê-li-sa-bét ken cô em Ma-ri-a có phúc vì đã
tin những lời Chúa phán sẽ được thực hiện. Còn Ma-ri-a cũng dâng lời Ngợi Khen tình
thương cứu độ của Thiên Chúa thể hiện trong lịch sử dân Ít-ra-en và với bản
thân mình là tớ nữ hèn mọn của Chúa.
3. CHÚ THÍCH:
- C 39: + Lên đường vội vã:
Chỉ một thời gian ngắn sau biến cố Truyền tin, Đức Ma-ri-a đã vội vã
lên đường đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét (hay cũng gọi là I-sa-ve),
mà sứ thần đã cho biết bà mới có thai được 6 tháng. Bà này đã chịu
tủi hổ trước mặt người đời, vì bị son sẻ không con. + Đến miền núi, vào một
thành thuộc chi tộc Giu-đa: Có lẽ thành mà Đức Ma-ri-a định
tới là một trong mười một địa hạt miền Giu-đê. Nhiếu người nghĩ đó
là A-in Ka-rim, cách thủ đô Giê-ru-sa-lem 6 cây số về phía Tây. Con
đừong từ Na-da-rét đến A-in Ka-rim dài 150 cây số.
- C 40-41: + bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét: Cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ thật
ra là cơ hội để thai nhi Giê-su gặp gỡ thai nhi Gio-an là vị tiền hô của
Người. + Đứa con trong bụng nhảy lên: Gio-an Tẩy Giả bắt đầu
sứ mệnh ngôn sứ bằng động tác nhảy lên trước Đấng Thiên Sai (Mêsia)
đang ẩn mình trong dạ mẹ, giống như vua Đa-vít xưa đã nhảy mừng khi ra đón
rước Hòm Bia Giao Ước. Truyền thống coi sự kiện này là dấu hiệu Gio-an Tẩy
Giả được khỏi tội tổ tông truyền. + Bà được đầy ơn Chúa Thánh Thần:
Thánh Thần đã tác động khiến bà Ê-li-sa-bét cảm nhận được Mẹ Đấng
Mê-si-a mang Người đến viếng thăm nhà mình.
- C
42-44: + Em được chúc phúc hơn mọi
người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc: Bà Ê-li-sa-bét ca tụng cô em họ
Ma-ri-a thực là diễm phúc hơn mọi phụ nữ, vì thai nhi trong lòng
Ma-ri-a là Đấng được chúc phúc. + Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi
đến với tôi thế này ?: “Chúa tôi” ở đây là danh xưng của Đấng
Mê-si-a. Nhờ được Thần Khí tác động mà bà Ê-li-sa-bét đã nhận ra thai
nhi mà cô em Ma-ri-a đang cưu mang là “Chúa”. Danh xưng Đức Giê-su là
“Chúa” được Tin Mừng Lu-ca sử dụng đến 40 lần. + Vì này đây, tai tôi vừa nghe
tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng:
Ê-li-sa-bét chia sẻ cho Ma-ri-a sự lạ mà bà cảm nghiệm vừa xảy ra nơi
bản thân. Đó cũng chính là lý do khiến bà nhận biết Đức Ma-ri-a đang
cưu mang Thai Nhi Cứu Thế.
- C 45: + Em thật có phúc, vì đã tin: Ma-ri-a đã tin vào những lời Chúa
phán với mình khi sứ thần truyền tin sẽ được thực hiện, và Mẹ đã
trở thành tín hữu đầu tiên của thời Tân Ước. Ngược lại là ông
Da-ca-ri-a chồng của bà đã không tin lời Chúa và đòi được thấy dấu lạ, nên ông đã
bị câm cho đến ngày các điều đó xảy ra (x. Lc 1,20).
- C
46-50: +“Linh hồn tôi ngợi khen Đức
Chúa: Sau khi nghe
bà Ê-li-sa-bét khen có phúc, Ma-ri-a đã quy lời ca khen đó về cho Thiên
Chúa trong bài kinh “Ngợi khen Thiên Chúa” (Magnificat). Bài này mô
phỏng theo bài ca mà bà An-na là mẹ của ngôn sứ Sa-mu-en, sau khi được
Đức Chúa cho sinh con trai và mang đứa trẻ lên Đền Thờ tại Si-lô thời
Tư tế Ê-li, để thánh hiến dâng cho Đức Chúa (x. 1 Sm 2,1-10). Kinh này
nhấn mạnh hai đìều: Một là người nghèo hèn bé mọn được Chúa bênh vực
(x. Xp 2,3 ; Mt 5,3); Hai là dân Ít-ra-en được Chúa tuyển chọn và yêu
thương (x. Đnl 7,6). Đức Ma-ri-a đã hát lên để bày tỏ lòng tri ân của mình
(cc 46-49) và của toàn dân It-ra-en (cc 50-55), vì nay đến lúc lời hứa
cứu độ của Đức Chúa đã được thực hiện.
- C 51-55: + Chúa
giơ tay biểu dương sức mạnh:
Chúa dùng quyền năng để can thiệp và bênh vực người hèn yếu (x. Tv
118,15-16). + Vì Người nhớ lại lòng thương xót: Cựu Ước thường ghi
là “Thiên Chúa nhớ lại” để diễn tả việc Người luôn trung thành với lời
hứa và thi hành những lời Ngừơi đã phán qua các ngôn sứ (x. St 8,1; 9,15; Xh
2,24). Lu-ca cũng không quên ghi lại lời chúc tụng tương tự trong bài ca của
Da-ca-ri-a: “Người nhớ lại lời xưa giao ước” (Lc 1,72).
-
C 56: + Ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ
ba tháng: Ở lại
để phục vụ và giúp đỡ cho bà chị Ê-li-sa-bét, làm các việc nhà
giúp đỡ bà, trong thời kỳ cuối trước khi sinh con, khi bà không thể làm
việc bình thường được. Nhưng Đức Ma-ri-a chỉ phục vụ ho tới khi bà sinh
con mà thôi. + rồi trở về nhà: Sau ngày bà Ê-li-sa-bét sinh con, con
trẻ đã được đặt tên và được chịu phép Cắt Bì để gia nhập làm công dân của
Ít-ra-en, thì Đức Ma-ri-a đã trở về làng Na-da-rét là quê hương của mình.
4. CÂU HỎI: 1) Lý do nào khiến Đức
Ma-ri-a phải vội vã lên đường viếng thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét ? 2) Truyền
thống Công Giáo khẳng định Gio-an Tẩy Giả được khỏi tội tổ tông truyền từ lúc
nào ? 3) Bà Ê-li-sa-bét được đầy Thánh Thần đã gọi Đức Ma-ri-a bằng tước hiệu
nào ? 4) Tại sao bà Ê-li-sa-bét khen Đức Ma-ri-a diễm phúc, khác với ông chồng Gia-ca-ri-a
của bà? 5) Bài kinh “Ngợi khen Thiên Chúa” (Magnificat) có nguồn gốc thế nào
trong Cựu Ước và nội dung nhấn mạnh những điều nào ? 6) Đức Ma-ri-a ở lại nhà
bà Ê-li-sa-bét trong bao lâu và ở lại để làm gì ?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Bà Ê-li-sa-bét được
tràn đầy Thánh Thần đã ca tụng Đức Ma-ri-a rằng: “Em được chúc phúc hơn
mọi người phụ nữ” (41-42a), và: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng
Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (45). Bấy giờ bà
Ma-ri-a nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (46).
2. LỊCH SỬ NGÀY ĐẠI LỄ VÀ CÂU CHUYỆN :
1) LỊCH SỬ TÍN ĐIỀU ĐỨC MẸ HỒN XÁC
LÊN TRỜI:
+ Từ thuở ban đầu, các giáo đoàn
tiên khởi đều tôn kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Từ những đoạn Thánh Kinh
Tân Ước, đến các giáo phụ, rồi Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431 đã
tuyên bố “Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa”. Đã có những lễ nói đến lúc
chấm dứt cuộc đời của Đức Ma-ri-a như: Lễ Đức Mẹ An Giấc (dormitio),
Lễ Đức Mẹ Chuyển Biến (Transitus), Lễ Đức Mẹ Sinh Ra Trên Trời
(Natalis), Lễ Đức Mẹ được Nâng Lên Trời (Assumptio).
+ Riêng Lễ Đức Mẹ An Giấc (Dormitio) đã được long trọng cử hành
đó đây trong Giáo Hội Đông Phương. Nhất là từ sau Công đồng chung
Ê-phê-sô năm 431, nhưng mãi đến thế kỷ thứ 7, lễ này mới được du nhập
vào Giáo Hội Tây Phương.
Từ đó về sau nhiều thư thỉnh
nguyện của các giám mục, các dòng tu, các nhà thần học được gửi
đến Đức Giáo Hoàng để xin Ngài định tín về việc Đức Mẹ Hồn Xác
Lên Trời. Trong Công đồng Vaticăng I, nhiều nghị phụ cũng yêu cầu Đức
Thánh Cha quyết định điều đó, vì theo các ngài thì việc Đức Mẹ Hồn
Xác Lên Trời có liên quan mật thiết với đức đồng trinh và chức vụ
làm mẹ Đấng Cứu Thế của Ngài. Hơn nữa, vì Mẹ đã được cứu chuộc
hoàn toàn, nên cũng phải được tôn vinh toàn diện như lời thánh
Phao-lô: “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích
cho những ai yêu mến người, tức là cho những ai Người đã biết từ
trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với
Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông
đúc” (Rm 8,28-29). Dựa theo các thỉnh nguyện thư đó, năm 1946, Đức Pi-ô
12 đã gửi đến mỗi giám mục một lá thư và yêu cầu trả lời như sau:
“Đức cha và hàng giáo sĩ, giáo dân trong giáo phận của Đức cha, có
xác tín và có muốn công bố việc Đức Ma-ri-a hồn xác lên trời như
một tín điều hay không ?” Hầu hết các thư trả lời đều đồng ý và cùng
thỉnh nguyện như vậy. Thế là vào ngày 1.11.1950, Đức Pi-ô 12 đã long
trọng tuyên bố tín điều Đức Ma-ri-a Hồn Xác Lên Trời cho toàn thể Giáo
Hội tin kính và mừng chung trong ngày 15 tháng 8 hằng năm.
+ Đức Thánh Cha đã xác quyết như
sau: “Thế nên Đức Thánh Mẫu cao cả, ngay từ đời đời và do cùng một
quyết định tiền định, đã được kết hợp với Đức Giê-su Ki-tô một cách
huyền nhiệm, vô nhiễm khi đầu thai, đồng trinh vẹn sạch khi làm Mẹ,
cộng tác quảng đại với Đấng Cứu Thế, Đấng đã chiến thắng hoàn
toàn sự tội và các hiệu quả của nó, thì cuối cùng để kết thúc
mọi đặc ân ngài đã được, Đức Trinh Nữ cũng đã được Chúa gìn giữ cho
khỏi bị hư nát ở trong mồ, để nên giống Con Mình. Sau khi chiến thắng
sự chết, ngài cũng được tôn vinh trên trời cả hồn lẫn xác, nơi Ngài
được tôn lên
Nữ Vương ngự bên hữu Con mình là Vua
bất tử của mọi thời” (trích CGKPV trang 334).
2) MẸ MA-RI-A HẰNG CỨU GIÚP NHỮNG
AI CHẠY ĐẾN KÊU CẦU NGƯỜI:
ĐU-LỚT HAI-ĐƠ (Douglas Hyde) vốn là
một người vô tín và thù ghét đạo Công giáo. Ông là chủ bút một tờ
báo lớn ở nước Anh. Với tư cách là chủ bút, ông nghiên cứu về Giáo
hội để viết những bài phê bình chống đối gay gắt. Tuy nhiên một điều
lạ lùng đã xảy ra, là ông càng nghiên cứu về giáo lý của Giáo Hội,
thì tâm trí ông lại càng thêm tin tưởng vào các chân lý ấy. Tuy vậy
ông vẫn chưa quyết định dứt khóat theo đạo ngay.
Một hôm, trên đường từ nhà đến tòa
soạn ở trung tâm thủ đô Luân Đôn, lúc xe lửa đến trạm dừng, Đu-Lớt
thấy tấm biển ghi “Nhà thờ Công giáo” ở bên đường, ông liền thử vào
bên trong nhà thờ xem sao. Ông ngồi vào hàng ghế ở cuối nhà thờ và
rồi thắc mắc tại sao mình lại có mặt ở đây? Bấy giờ ông thấy một cô
gái bước vào nhà thờ, nét mặt âu lo buồn khổ. Cô ta đi thẳng đến
trước tòa Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp bên trái của cung thánh nhà thờ và quỳ
dưới hình Đức Mẹ một hồi lâu. Sau đó, cô đứng dậy đi xuống cuối và
ra khỏi nhà thờ. Khi cô đi ngang, Đu-lớt nhận thấy nét mặt của cô ta
đã bình thản trở lại chứ không còn lo âu sầu não như khi mới bước vào nhà
thờ.
Ngay lúc đó Đu-lớt quyết định thử
làm theo cô ta là cũng đến quỳ trước ảnh Đức Mẹ. Sau này ông đã viết
trong cuốn “tôi tin” (I believed) như sau: “Tôi không biết người ta đã cầu
nguyện với Đức Mẹ thế nào ? Cuối cùng tôi nghe thấy chính mình sắp
nói ra một điều gì đó thích hợp. Tuy nhiên khi bắt đầu thốt ra thì
tôi lại thấy lời đó có vẻ kỳ cục làm sao ! Nhưng điều này không quan
trọng gì. Tôi biết rõ là sự tìm kiếm bấy lâu nay của tôi đã đạt
tới mục đích… Lúc ra khỏi nhà thờ, tôi cố gắng hồi tưởng lại những
gì tôi nói và hầu như tôi bật cười lên khi nhớ lại những lời ấy.
Chúng giống hệt những lời ngân lên trong một điệu khiêu vũ !” Cuối cùng
Đu-lớt đã đạt tới đức tin vào Chúa Giê-su qua lời cầu bầu của Đức Mẹ Hằng Cứu
Giúp.
3) ĐƯỢC ƠN CỨU ĐỘ TRONG GIỜ SAU HẾT NHỜ CÓ LÒNG MẾN ĐỨC MẸ:
Một hôm trong đám những người hành hương đến giáo
xứ Ars có một người đàn bà mang đại tang. Bà vào giữa nhà thờ đứng như trời
trồng ở giữa mọi người. Bà có vẻ rất đau khổ. Lý do là chồng bà, một người đã
bỏ đạo từ lâu cách đây mấy bữa đã nhảy xuống sông tự tử… đã chết mà không được
lãnh nhận những bí tích cuối cùng. Cha Gio-an Ma-ri-a Vianey đi qua… Bà chưa
kịp nói gì thì Cha ghé vào tai bảo bà:
- Ông nhà đã được cứu rỗi
rồi.
Thấy người đàn bà có vẻ quá
ngạc nhiên, cha nói lại một lần nữa:
- Tôi đã bảo ông nhà đã được
cứu rỗi rồi mà.
Bà thắc mắc hỏi lại với một giọng
đầy hoài nghi, cha nhấn mạnh từng tiếng:
- Tôi bảo bà là ông nhà đã
được cứu rỗi rồi. Ông hiện đang ở trong Luyện ngục. Phải cầu nguyện nhiều cho
ông ta. Giữa nhịp cầu và dòng nước ông đã có được một thời gian để ăn năn thống
hối. Bà còn nhớ là trong tháng Đức Mẹ, bà đã cho làm một bàn thờ trong phòng
của bà không? Thỉnh thoảng, chồng của bà, mặc dầu đã bỏ đạo cũng đến hợp lời
cầu nguyện với bà. Thái độ đó đã đem lại cho ông ta ơn thống hối và tha tội vào
phút cuối cùng của cuộc đời.
3. SUY NIỆM:
1) KÍNH MỪNG MA-RI-A ĐẦY ƠN PHÚC: Ma-ri-a đã được dư đầy ơn phúc và luôn được Thiên Chúa ở cùng như lời chào
của sứ thần truyền tin (x. Lc 1,28).
+ Mẹ đầy ơn phúc vì tâm hồn Mẹ trong sạch và luôn kết hiệp với Chúa.
+ Mẹ có phúc vì đã tin Lời Chúa: Bà Ê-li-sa-bét đã ca tụng Đức Ma-ri-a:
“Em thật có phúc, vì đã tin rằng: Chúa sẽ thực hiện những gì Người
đã nói với em” (Lc 1,45).
+ Mẹ có phúc vì cưu mang Chúa Giê-su là Lời Thiên Chúa làm người: Nên Mẹ được ví như Hòm Bia Giao Ước Mới của Thiên Chúa (x. Ga 1,14; Mt 1,23).
+ Nhất là Mẹ có phúc vì đã nghe và thực hành Lời Chúa: như Đức Giê-su đã bổ túc lời khen Mẹ của một
phụ nữ bằng lời sau: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe
và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,27-28).
2) ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ ĐỨC GIÊ-SU VÀ MẸ
HỘI THÁNH:
+ Chính Chúa Giê-su đã đặt
Đức Ma-ri-a làm Mẹ Hội Thánh khi trao Mẹ cho môn đệ Gio-an đại diện Hội
Thánh, để ông thay Người phụng dưỡng Mẹ sau khi Người lên trời, như Tin Mừng
Gio-an thuật lại: “Đứng gần thập giá Đức Giê-su có Thân Mẫu Người, chị
của thân mẫu là bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a
Mác-đa-la. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh,
Đức Giê-su nói với mẹ rằng: “Thưa bà, đây là con của Bà”. Rồi Người
nói với môn đệ: “Đây là mẹ anh”. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước Bà
về nhà mình” (Ga 19,25-27).
+ Đức Ma-ri-a là Mẹ của Hội Thánh vì là
mẹ của Đức Giê-su là Đầu, nên cũng là Mẹ của Hội Thánh là thân thể của
Người, trong đó có chúng ta, như thánh Phao-lô dạy: “Thiên Chúa
đặt Người làm Đầu toàn thể Hội Thánh (x. Ep 1,22b-23); “Người cũng
là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh” (Cl 1,18).
3) ĐỨC MA-RI-A ĐƯỢC CHÚA BAN THƯỞNG HỒN
XÁC LÊN TRỜI:
Ngoài truyền thống hay Thánh Truyền
là ký ức tông truyền, Giáo Hội còn dựa trên một số đoạn Thánh Kinh
cho thấy Mẹ Thiên Chúa liên kết mật thiết với Đức Giê-su Đấng Cứu Độ như
sau:
+ “Dòng giống người nữ sẽ đánh vào đầu
mi” (St 3,14-15): Đức Giê-su sẽ chiến thắng con rắn ma quỷ.
+ “Đấng đầy ân sủng, luôn được Thiên Chúa
ở cùng” (x. Lc 1,28): Đầy ân sủng là luôn có Chúa, là hoàn
toàn trong sạch thánh thiện, nên Mẹ không phải chết như loài người
chúng ta. Đức Ma-ri-a đã được Chúa chọn làm Mẹ Đấng Thiên Sai, Đấng sẽ
thay vua Đa-vít để cai trị Ít-ra-en, và triều đại Người sẽ luôn vững
bền. (x Lc 1,31).
+ Đức Ma-ri-a là E-và Mới: Mẹ đã
cộng tác với Đức Giê-su là A-Đam mới, để vâng phục Chúa Cha (x. Rm
5,12-19 ; PI 2,6-11) và tích cực cộng tác với Đức Giê-su trong cuộc khổ
nạn nên cũng được dự phần vào sự phục sinh vinh quang với Người. Đức
Giê-su/ A-đam Mới đã qua đau khổ thập giá để phục sinh và lên trời, thì tiếp
theo Chúa là Đức Ma-ri-a/ E-và Mới cũng được Thiên Chúa triệu hồi về trời cả hồn
lẫn xác.
4) ĐỂ ĐƯỢC CÙNG MẸ LÊN TRỜI:
+ “Quê hương chúng ta ở trên trời. Nơi
đó chúng ta sẽ gặp Đấng Cứu Chuộc là Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta” (Pl 3,20).
Tuy nhiên chúng ta chỉ được lên trời nếu tin yêu Chúa Giê-su, bỏ ý riêng
và các thói hư tội lỗi, sẵn sàng vác thập giá mình hằng ngày theo chân Chúa như
Mẹ Ma-ri-a đã nêu gương.
+ Sống đức Tin, Cậy, Mến noi gương Đức
Mẹ: Năng nghe Lời Chúa phán, suy niệm để tìm hiểu ý Chúa và
sẵn sàng xin vâng noi gương Mẹ như Tin Mừng ghi nhận: “Còn bà Ma-ri-a thì
hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19.51).
+ Năng cầu nguyện tín thác vào
Chúa như Mẹ đã cầu bầu cho đôi tân hôn và Đức Giê-su đã biến nước lã thành
rượu ngon giúp đôi tân hôn như lời Mẹ xin (x. Ga 2,1-11).
+ Bác ái khi lập tức đi thăm bà
chị Ê-li-sa-bét để chia sẻ niềm vui với bà. Thai nhi Gio-an đã “nhảy mừng”
trong lòng mẹ khi gặp Thai Nhi Giê-su. Sau đó Mẹ ở lại với bà 3 tháng cho tới
khi bà sinh con để phục vụ, rồi mới về Na-da-rét (x. Lc 1,39-56).
4. THẢO LUẬN:
1)
So sánh giữa việc lên trời của Đức Mẹ giống và khác với việc thăng
thiên của Chúa Giê-su thế nào ? 2) Những kẻ khi còn sống mà bị mù
què câm điếc, mặt mũi xấu xí, thì khi sống lại có tiếp tục bị như
vậy nữa không ?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY MẸ MA-RI-A LÀ MẸ RẤT NHÂN TỪ.
“Xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức
Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời”.
LẠY MẸ. Hôm nay cùng với Hội thánh
hoàn cầu, chúng con long trọng mừng lễ Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Xin cho
chúng con biết chạy đến với Mẹ mỗi khi gặp gian nan thử thách như bị
thất bại trong việc làm ăn; Những lúc con không biết phải làm gì để
vượt qua hoàn cảnh khó khăn nan giải... Trong những giờ phút đau thương
ấy, xin cho chúng con biết chạy đến nép mình dưới tà áo Mẹ, để
được Mẹ ủi an che chở, để được Mẹ cầu cùng Chúa Giê-su ban cho chúng
con các ơn lành hồn xác. Xin dạy chúng con luôn lắng nghe và làm theo Lời
Chúa Giê-su, như Mẹ đã dạy các người giúp việc tại Ca-na xưa.
X) HIỆP CÙNG
MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM
ĐAN VINH - HHTM