Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Tin Tức & Sự Kiện
TẢN MẠN VỀ THƯ CHUNG 1980 CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM


Lm GIUSE NGUYỄN CÔNG ĐOAN - Dòng Tên


Lm Giuse Nguyễn Công Đoan gặp ĐGH Phanxicô trong dịp kỷ niệm 50 năm sống trong dòng Tên năm 2016 (ảnh của báo CG&DT)

Kỷ niệm 40 năm Thư Chung 1980, những nghiên cứu về “thần học bối cảnh” phía sau bức thư đã được tiến sĩ Peter Hải bên Úc trình bày rất tường tận. Các nghiên cứu khác thì nhiều người có khả năng hơn để tham gia.

Tòa soạn báo Công giáo và Dân tộc nhờ tôi viết vài cảm nghĩ “tản mạn” về Thư Chung 1980. Ở nơi quê hương của Chúa, vào cái tuổi mà bạn bè cũ đã về hưu, tôi vẫn chưa đạt mức “bảy nghiệp”, nên vẫn bận rộn. Viết gì sâu xa thì không dám, nhưng viết tản mạn  thì một ông lão đã chạm mức trần cao của Thánh vịnh: “Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục, mạnh giỏi chăng là được tám mươi” chịu lắm, chỉ sợ người thời nay không có thời giờ đọc chuyện thời xưa thôi!

 

ĂN CƠM MỚI NÓI CHUYỆN CŨ

Tôi nói ăn cơm mới, vì đã được biết và đã ăn vài bữa cơm của Đức TGM Leopoldo Girelli, hiện là Sứ Thần Tòa Thánh bên cạnh Nhà nước Israel, kiêm Khâm sứ Tòa Thánh tại Giêrusalem và Palestin, do tính phức tạp của vùng đất này. Trước khi nhận nhiệm sở tại đây, ngài là “Đại diện không thường trú” của Tòa Thánh Vatican tại Việt Nam từ năm 2011-2017.

Hai năm trước, có một đoàn hành hương từ Sapa tới Giêrusalem, xin thăm ngài. Tôi được gọi giúp dịch thư từ bằng tiếng Việt giữa hai bên, rồi trong buổi gặp gỡ thân mật diễn ra ngay tại nhà chúng tôi – vì lúc ấy Tòa Khâm sứ đang sửa chữa, không đủ chỗ tiếp tám chục người. Đáp lời chào mừng của đoàn, ngài mở đầu: “Khi tôi rời Việt Nam, tôi chỉ xỏ đôi giày mang theo, còn trái tim tôi để lại ở đó”. Ngài nói rất chân thành và chứng tỏ ngay sau đó: đoàn chỉ xin thăm, đến khi thăm rồi thì xin ngài chủ sự thánh lễ.

Ngài hỏi tôi: “Sáng nay tôi dâng lễ rồi thì sao?”. Tôi trình với ngài: “Đây là ngoại lệ, không có lần thứ hai cho người hành hương và cho ngài đâu!”. Ngài vui vẻ đi mặc áo lễ. Tôi đồng tế bên cạnh. Cảnh “mẹ gà con vịt”. Ngài mở đầu bằng tiếng Việt: “Nhân danh Cha…, Bình an của Chúa ở cùng anh chị em…”. Sau đó thì tôi đọc tiếp bằng tiếng Việt. Ngài giảng bằng tiếng Ý, tôi dịch. Đến kinh Tiền Tụng và Kinh Nguyện Thánh Thể cũng vậy… Trái tim ngài vẫn còn ở Việt Nam.

Ăn cơm mới nhớ chuyện cũ, tôi nhớ chứ không có gì để nói, vì lúc đó tôi đi ra miền Trung gõ cửa từng Đức Giám mục để xin ý kiến về tương lai của Giáo Hoàng Học viện Thánh Piô X, Đà Lạt do Dòng Tên phụ trách, khi về thì nghe kể lại.

Nghe tâm tình của Đức Khâm sứ ở đây, tôi bỗng cúi mặt bùi ngùi, nhớ lại Vị Khâm sứ cuối cùng tại Việt Nam, Đức cha Henri Lemaitre, rời đi năm 1975, ôm theo một trái tim đầy khắc khoải và chiếc áo dòng bị kéo đứt nút làm kỷ niệm.

Bốn mươi lăm năm qua đi giữa Đức Khâm sứ cuối cùng và vị Đại diện không thường trú đầu tiên, đánh dấu hai giai đoạn lịch sử thật trái ngược. Giữa những biến chuyển toàn cầu, đường lối Tin Mừng của Hội đồng Giám mục Việt Nam được phát biểu trong Thư Chung năm 1980 và được toàn thể Hội Thánh kiên trì thực thi, đã chuyển nối giữa hai câu chuyện trong tương quan giữa Hội Thánh và chính quyền, giữa Tòa Thánh Vatican với Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

 

TỪ THƯ CHUNG 1951 ĐẾN THƯ CHUNG 1980

Chuyện tản mạn về Thư Chung

1980 đưa tôi ngược về năm 1951, lúc tôi lên mười. Tôi còn là cậu giúp lễ ở một xứ đạo xa xôi, chuẩn bị vào Tiểu Chủng viện năm 1952, chưa biết gì ngoài chuyện sợ bom đạn, vì chiến tranh đang lên tới đỉnh cao.

Năm 1954, tôi theo chủng viện di cư vào Nam rồi tiếp tục học hành. Ngày 29.4.1975, giữa tuổi “băm…”, tôi mới bắt đầu làm việc. Sau năm 1954, do hoàn cảnh, các giám mục ở miền Bắc gần như hoàn toàn cắt đứt với bên ngoài, nên vẫn sống với Thư Chung 1951.

TỪ ĐỨC THÁNH CHA PIÔ XI ĐẾN THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN XXIII VÀ THÁNH GIÁO HOÀNG PHAOLÔ VI

Tư tưởng của loài người tiến triển không ngừng. Thời đại của những khám phá khoa học về mọi lãnh vực từ thế kỷ XVI thúc đẩy sự phát triển tư tưởng ngày càng nhanh. Trong khi đó thì Hội Thánh trước thời công đồng Vatican II, có thể nói là tự bằng lòng với một khung giáo lý vững vàng, bất di bất dịch, một nền thần học chủ yếu là giải thích các tín điều, một nền triết học chủ yếu kế thừa của Hy lạp. Triết học này được coi là “nữ tì phục vụ thần học”. Những người giảng dạy thần học, triết học chủ yếu là người phương Tây, một số người tự coi là trung tâm của thế giới, coi các dân khác là man-di mọi rợ. Sau thánh Tô-ma A-qui-nô thì thần học và triết học được giảng dạy trong Hội Thánh trở cái thành khung tư tưởng, dường như không có chỗ cho sáng tạo nữa. Kinh Thánh là Lời Chúa, nguồn ánh sáng và sức sống của tìn hữu và cả Hội Thánh, đôi khi cũng bị giáng cấp làm một “nữ tì phục vụ thần học”. Cuộc cải cách của Luther và nhiều người khác, làm cho Sách Thánh trở thành một kho báu phải bảo vệ nhờ hàng rào của tiếng La-tinh, thứ ngôn ngữ đã ra khỏi đời sống hàng ngày của người Âu châu.

Nhắc lại những yếu tố này để hiểu sự thay đổi tư tưởng, thái độ của Hội Thánh là kỳ công của Chúa Thánh Thần như thế nào, để giải phóng Lời Chúa và mở mạch nước ban sự sống của Thiên Chúa cho loài người. Chuyện này đã xảy ra ngay từ thời ban đầu, như sách Công Vụ Tông Đồ kể cho chúng ta. Chúa Thánh Thần vẫn là Đấng dẫn dắt Hội Thánh từ bên trong, con người thì luôn có khuynh hướng gây cản trở bằng cách nhốt Thánh Thần lại, hoặc bỏ Thánh Thần để theo “thần lạ”. Nhìn lại những thách đố từ bên trong này để thấy rõ hơn Công Đồng Va-ti-ca-nô II quả là một cuộc hiển linh mới của Chúa Thánh Thần, để đưa Hội Thánh vào thiên niên kỷ mới.

Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, Hội Thánh bắt đầu chuyển mình với Đức Lê-ô XIII, rồi Thánh Giáo Hoàng Pi-ô X. Nhưng thái độ lập hàng rào tự vệ trỗi dậy mạnh mẽ với các trào lưu duy lý và thực nghiệm ứng dụng vào suy tư thần học và giải thích Sách Thánh. Đức Pi-ô XI sống ở thời kỳ mà chủ nghĩa cộng sản không còn là một học thuyết nhưng đã thành chế độ chính trị ở Liên xô, và các Đảng Cộng Sản bừng bừng khí thế tại các nước Tây Âu. Thông điệp chống cộng năm 1936 nằm trong bối cảnh lịch sử đó và Thư Chung 1951 cũng trong bối cảnh đó, trầm trọng thêm vì cuộc chiến tranh vốn có tính dành độc lập chủ quyền do Đảng Cộng Sản Việt nam (tên gọi thay đổi từng thời kỳ) lãnh đạo mà người công giáo cũng tham gia.

THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN XXIII, VỊ “GIÁO HOÀNG CHUYỂN TIẾP”

Sau thời lãnh đạo đầy gian truân nhưng sáng chói của vị Giáo Hoàng thông minh tài giỏi Pi-ô XII, các Hồng Y họp nhau và thấy cần một vị Giáo Hoàng chuyển tiếp, trong khi chờ để tìm được một vị có thể sáng chói, giải pháp một “Ông Già Chuyển Tiếp” được chọn và Hồng Y Roncalli ở tuổi “sắp chạm trần nhà” được bầu lên. Thiên Chúa vẫn giàu óc khôi hài hơn con người, như chúng ta vẫn thấy trong lịch sử mà Sách Thánh kể lại. Thiên Chúa hay dùng những người mà người ta coi thường để làm những việc to lớn.  Các ngươi muốn chuyển tiếp hả, Ta sẽ chuyển tiếp theo cách của Ta chứ không phải theo cách của các ngươi.

Đức Gioan XXIII kể lại rằng Ngài chưa bao giờ nghĩ tới triệu tập một Công Đồng chung, nhưng cứ nghe một tiếng nói bên trong thôi thúc và Ngài quyết định theo tiếng nói bên trong ấy, mọi người chung quanh kinh hồn bạt vía khi nghe ngài công bố, vì nghĩ tới công việc chuẩn bị và thời hạn Ngài đã đưa ra. (Năm ấy tôi lên tuổi hai mươi, bắt đầu học tại Giáo Hoàng Học Viện Thánh Pi-ô X, Đalat).

Lần này quả là Hội Thánh toàn cầu, mọi màu da tiếng nói, hai ngàn giám mục từ 141 nước có mặt. Các Hội Thánh Ki-tô giáo không hợp nhất với Rô-ma cũng được mời tham dự trong tư cách quan sát viên.

Các công đồng, từ Giê-ru-sa-lem đến Va-ti-ca-nô I, đều lo đối phó vời những vấn đề nhất định. Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã dứt khoát chọn hướng đi mới: trở về nguồn để canh tân. Đối nội thì trình bày giáo lý cách tích cực và đối ngoại thì cởi mở, đối thoại, hợp tác. Hai hiến chế về Hội thánh mở ra cái nhìn mới về bản chất và sứ mạng của Hội Thánh, truyền sức sống và năng động mới cho Hội Thánh toàn cầu. Các sắc lệnh và tuyên ngôn khác đặt Hội Thánh của Chúa ở giữa lòng thế giới như một công đoàn huynh đệ khiêm tốn, để phục vụ và mở rộng tình huynh đệ mà Chúa Giê-su đem tới cho cả loài người.

THÁNH GIÁO HOÀNG PHAOLÔ VI, Vị GIÁO HOÀNG CHẮP CÁNH BAY TỚI CHÂN TRỜI GÓC BIỂN

Khóa họp thứ nhất kết thúc, trong khi chuẩn bị khóa II thì “Giáo Hoàng chuyển tiếp” đã hoàn thành sứ mạng đưa Hội Thánh rời bệ phóng để bay tới chân trời mới bằng năng lượng của Thánh Thần. Chúa cho ngài được nghỉ ngơi. Đức Phaolô VI tuyên bố tiếp tục Công Đồng như đã dự trù và đã bắt đầu. Công Đồng hoàn tất việc thảo luận các vấn đề theo kế hoạch và bế mạc.

Từ khi thánh Phêrô di chuyển tới Antiôkhia rồi tới Rôma và bị đóng đinh ở đó, như Chúa Giêsu đã báo trước cho ông biết ông phải chết cách nào (x. Ga 21,19), Đức Phaolô VI là người kế vị thánh Phêrô đầu tiên hành hương trở về Thánh Địa. Và trên núi Ôliu là nơi Chúa Giêsu đã cầu nguyện trong đêm cuối cùng, rồi sau khi Phục Sinh đã lên trời trước mặt các môn đệ, Đức Phaolô VI đã ôm hôn Thượng phụ Giáo chủ Chính Thống giáo Hy Lạp Athenagoras, như một cử chỉ hòa giải sau khi hai bên (Latinh và Hy Lạp) đã “tuyệt thông” với nhau từ năm 1054. Đức Phaolô VI cũng là vị giáo hoàng đầu tiên bay tới trụ sở Liên Hiệp Quốc tại New York để phát biểu trước Đại Hội Đồng, và là vị giáo hoàng đầu tiên bay tới chân trời phía Đông để gặp gỡ Hội Thánh vùng châu Á Thái Bình Dương. Về phương diện ngoại giao, ngài cũng mở về phía các nước Đông Âu.

 

TỪ GIÁM MỤC GIÁM QUẢN TÔNG TÒA ĐẾN GIÁM MỤC CHÁNH TÒA TẠI VIỆT NAM

Tin Mừng đã đến Việt Nam lần đầu từ năm 1533, nhưng chỉ như một tia sáng lóe lên, không để lại dấu vết gì. Năm 1615, các cha Dòng Tên mới bắt đầu gầy dựng được các cộng đoàn tín hữu đông đúc lâu bền. Nhưng phải chờ nửa thế kỷ sau mới có Giám mục Giám quản Tông tòa, Đức cha Pierre Lambert de la Motte tới. Hội Thánh lớn lên giữa những cơn bách hại kế tiếp nhau. Phải ba trăm năm sau mới có người Việt Nam đầu tiên làm Giám mục Giám quản Tông tòa. Rồi năm 1960, Đức Gioan XXIII đã thiết lập Hàng Giáo Phẩm, đưa Hội Thánh tại Việt Nam từ chế độ “Giám mục Giám quản Tông tòa” sang chế độ “Giám mục Chánh tòa”, nghĩa là nhìn nhận Hội Thánh tại Việt Nam đã trưởng thành ngang tầm với các Hội Thánh kỳ cựu.

BỐI CẢNH GẦN CỦA THƯ CHUNG 1980

Bởi vì được nhờ viết “tản mạn” nên lão tám chục đã tản sang bối cảnh xa, từ năm lên mười của đời mình, khi Thư Chung 1951 ra đời. Bây giờ lại tản về bối cảnh gần, từ khi đất nước tạm chia đôi năm 1954. Hai bên bờ sông Bến Hải là hai thể chế chính trị, hai nếp sống khác nhau. Hội Thánh hai bên cũng không thể đi chung một nhịp. Các giám mục ở phía Nam đã tham dự Công Đồng, từ bước chuẩn bị đến ngày bế mạc, và áp dụng ngay. Hội Thánh ở miền Bắc thì cắt đứt với bên ngoài, sang thập niên 70 mới bắt đầu có chút liên lạc. Tôi nhớ không lầm thì năm 1974, các linh mục, tu sĩ người Việt đang học ở Rô-ma chúng tôi đã được tiếp đón Đức Hồng Y Trịnh văn Căn, Tổng Giám Mục Phó Hà-nội tại đó.

TÌM LẠI NHỊP BƯỚC CHUNG GIỮA HỘI THÁNH Ở HAI MIỀN

Cuối năm 1976, toàn cõi Việt Nam trở thành một Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, sự giao thông từ Bắc vào Nam, từ Nam ra Bắc ngày càng dễ dàng, thì Hội Thánh ở miền Bắc cũng nhận được đầy đủ các văn kiện của Công Đồng với bản dịch tiếng Việt, và hai bên bắt đầu tìm lại nhịp bước chung. Miền Bắc cần thời gian để chuyển từ thông điệp chống cộng 1936 và Thư Chung 1951 sang đường lối của Công đồng Vatican II.

Trước ngày 30.4.1975, ĐTC Phaolô VI, đã ủy quyền cho các Giám mục Việt Nam, nếu không liên lạc được với Tòa Thánh thì có thể phong chức giám mục, rồi khi nào có thể thì báo lại. Nhưng Việt Nam là Việt Nam. Năm 1977, Đức TGM Phaolô Nguyễn Văn Bình vẫn có thể đi Rôma dự cuộc họp Thượng Hội đồng Giám mục về việc giảng dạy giáo lý, và đã gây tiếng vang lớn với bài phát biểu nêu vấn đề: Làm thế nào dạy giáo lý cho thế hệ trẻ lớn lên trong nền giáo dục của một nước theo chủ nghĩa Mác-xít ? Hội đồng Giám mục miền Nam Việt Nam đã họp được hai lần năm 1976 và 1978, tìm cách ứng dụng đường lối cởi mở, đối thoại, hợp tác và phục vụ của Công Đồng và của Hai vị Giáo Hoàng Gioan XXIII và Phaolô VI.

Năm 1980 đã đi vào lịch sử Hội Thánh tại Việt Nam như cột mốc của một khúc quanh quan trọng.

Lần đầu tiên Hội đồng Giám mục toàn quốc Việt Nam họp. Cuộc họp diễn ra tại Thủ đô Hà Nội suốt một tuần lễ, và bế mạc ngày 1 tháng 5. Lúc đó cả nước có 40 vị giám mục thì 33 vị đã về họp. Dư luận chờ xem các giám mục sẽ nói gì, vạch ra đường hướng nào cho Hội Thánh bước đi trong một nước Xã Hội Chủ Nghĩa.

Các giám mục phía Nam đã hai lần họp bàn về hướng đi của Hội Thánh dưới chế độ mới, nên thấy rõ ràng Công đồng Vatican II đã đưa Hội Thánh sang trang, mở đầu một trang sử mới mà không cần nhắc chuyện cũ của thời đã qua.

Trước khi họp nhau lần đầu, các giám mục hai miền đã có nhiều dịp trao đổi với nhau, hiểu biết nhau, hiệp nhất với nhau trong tinh thần của Công Đồng, nên khi họp nhau lại thì dễ dàng đưa ra đường lối chung. Chẳng ai có thể vặn đồng hồ lịch sử lại. Mỗi thế hệ phải viết trang sử của mình nhờ đào sâu và sống thực với căn tính của mình. Lịch sử dân tộc và đất nước đã sang trang, Hội Thánh phải cùng đi trong trang sử mới.

Hội Thánh tại Việt Nam lúc ấy, giám mục, giáo sĩ giáo dân toàn là Con Rồng Cháu Tiên. Vậy thì cần xác định rõ căn tính của Hội Thánh và cách thức đồng hành với dân tộc.

Phúc Âm làm cho Kitô hữu là Kitô hữu và Hội Thánh là Hội Thánh của Chúa Kitô. Hội Thánh kết hợp mọi tín hữu của Chúa Kitô trên toàn thế giới, có chung một Thiên Chúa là Cha, một Đức Giêsu Kitô là Chúa, một Thánh Thần liên kết mọi người bằng một đức tin, một phép Rửa, để nên một Thân Thể của Đức Kitô. Một Hội Thánh duy nhất dưới quyền Đấng kế vị thánh Phêrô và các giám mục, tương tự như các thế hệ ban đầu với thánh Phêrô và các tông đồ: “Hội Thánh Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền” như chúng ta vẫn tuyên xưng.

Trong Hội Thánh duy nhất này, mỗi người vẫn giữ nguyên màu da tiếng nói, văn hóa của mình; vẫn sống giữa lòng dân tộc, chung vận mệnh với dân tộc của mình, cùng bảo vệ và thăng tiến giống nòi, xây dựng và bảo vệ quê hương, tổ quốc của mình; yêu đồng bào, yêu quê hương, yêu đất nước của mình, nhưng không kỳ thị loại trừ các dân tộc khác, vì tất cả mọi người và mọi dân tộc đều là con cái Thiên Chúa và được Đức Kitô cứu chuộc.

Bức thư đã đề ra những giáo huấn rõ ràng dứt khoát, nói lên bản chất và sứ mạng của Hội Thánh, trách nhiệm của mọi người tín hữu của Chúa Kitô, đối với Hội Thánh cũng như đối với đồng bào, dân tộc, quê hương, đất nước. Cả một trăm đứa con của Mẹ Âu Cơ phải được tôn trọng như nhau, được đón nhận Phúc Âm và sống theo bản sắc của mình, trong một Hội Thánh trên giải đất hình chữ “ S “ven bờ Thái Bình Dương này.

SỐNG PHÚC ÂM GIỮA LÒNG DÂN TỘC VÌ HẠNH PHÚC CỦA ĐỒNG BÀO

Cũng như Chúa Kitô là Con Thiên Chúa đã vì loài người chúng ta mà xuống thế làm người, thì Hội Thánh của Chúa Kitô cũng vì loài người. Không phải loài người chung chung, trên mây hay trong mơ, mà cụ thể:

Chúng ta phải đồng hành với dân tộc mình, cùng chia sẻ một cộng đồng sinh mạng với dân tộc mình, vì quê hương này là nơi chúng ta được Thiên Chúa mời gọi để sống làm con của Người, đất nước này là lòng mẹ cưu mang chúng ta trong quá trình thực hiện ơn gọi làm con Thiên Chúa, dân tộc này là cộng đồng mà Chúa trao cho chúng ta để phục vụ với tính cách vừa là công dân vừa là thành phần Dân Chúa (s.9).

Hai ngàn năm trước ở Giêrusalem, Thánh Thần đã nổi gió mạnh (Cv 2,2) đưa các môn đệ lên đường loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ở ngưỡng cửa của thời đại toàn cầu hóa, gió mạnh này lại nổi lên trong Công Đồng Vatican II để đưa Hội Thánh đi vào kỷ nguyên mới. Năm 1980 tại thủ đô Hà Nội, gió mạnh của Chúa Thánh Thần lại cuốn các giám mục và toàn thể Hội Thánh tại Việt Nam vào hướng đi mới giữa lòng dân tộc.

Sự chân thành của Hội Thánh tại Việt Nam được kiểm chứng bằng hành động. Những biến chuyển trên thế giới và sự kiên trì của Hội Thánh tại Việt Nam trong đường lối của Chúa Thánh Thần đã đưa lại kết quả như chúng ta đang sống hôm nay.

 

THAY LỜI KẾT

Từ mười hai năm nay, được sống và phục vụ Hội Thánh tại Thành Thánh Giêrusalem, nơi Chúa đã chết, sống lại, sai các môn đệ đi tới tận cùng thế giới rồi lên trời, tôi có dịp gặp gỡ những người từ bốn phương trời, mười phương đất đến hành hương, nghiên cứu, học hỏi. Biết nguồn gốc của tôi, họ thường hỏi hai câu: Việt Nam còn là nước cộng sản không? Tình trạng Hội Thánh ở Việt Nam thế nào? Trả lời câu thứ nhất: Nước tôi vẫn là nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo. Trả lời câu thứ hai: Tôi chỉ về phía tòa Khâm sứ: Đức Tổng Giám mục Leopoldo Girelli, trước khi nhận nhiệm vụ Khâm sứ Tòa Thánh tại Giêrusalem và Palestin, đã là người đầu tiên làm Đại diện không thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam. Chúng tôi hy vọng trong tương lai gần sẽ có Sứ thần Tòa Thánh đấy! Chúng tôi mới có thêm một giáo phận và đang chờ có thêm vài giáo phận nữa.

Ai cũng trố mắt ngạc nhiên “chưa thấy thế bao giờ”. Tôi giải thích: “Ở đâu có mà thấy ? Chỉ có ở Việt Nam tôi mới có thôi!”.

Vâng, Việt Nam vẫn là Việt Nam, có những nét rất riêng!

Chúng tôi là Con Rồng Cháu Tiên, biến hóa khôn lường, không rập khuôn của ai hết.

Nhưng chúng tôi tin rằng  được như thế là vì Chúa Giêsu vinh quang ở với chúng tôi, và Chúa Thánh Thần dẫn dắt chúng tôi như lời Chúa Giêsu đã hứa;  mà chúng tôi cũng để Chúa Thánh Thần dẫn dắt, như cha ông chúng tôi vẫn sống từ khi đón nhận Tin Mừng, suốt bốn trăm năm qua.

Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô muôn đời. Amen. Ha-lê-lui-a! 

 

Tác giả:  Lm. Ng Công Đoan, SJ

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!