Tác giả:
Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Email:
josleminhthong@gmail.com
Ngày
16 tháng 06 năm 2020.
Nội
dung
Dẫn nhập
1. Cấu
trúc 4,13 và tầm quan trọng dụ ngôn gieo giống.
2. So
sánh dụ ngôn (4,3-8) và áp dụng (4,14-20)
3. Giải
thích đoạn văn Mc 4,14-20
4. Các
loại đất trong dụ ngôn là ai?
5. Dụ
ngôn gieo giống và độc giả
Kết luận
Dẫn nhập
Sau
khi tìm hiểu “Mc 4,1-9: Dụ ngôn gieo giống” và “Mc 4,10-12: Mầu Nhiệm Nước
Thiên Chúa và những kẻở ngoài”, bài viết này phân tích “Mc 4,13-20: Áp dụng dụ
ngôn gieo giống”.
Từ đầu
thế kỷ XX, các nhà chú giải thường phân biệt hai giai đoạn trong đoạn văn
4,1-20: (1) Lời rao giảng của Đức Giê-su bằng dụ ngôn (4,1-9) và (2) phần áp dụng
dụ ngôn (4,14-20) là của những người đi rao giảng Tin Mừng sau khi Đức Giê-su về
trời, vì đoạn văn 4,14-20 có những chi tiết gợi lại giáo huấn của Hội Thánh
tiên khởi. Một số tác giả khác cho rằng Đức Giê-su chỉ nói dụ ngôn gieo giống
(4,1-9) trong viễn cảnh cánh chung: khẳng định sự thành công cuối cùng của
Vương Quốc Thiên Chúa cho dù gặp sự chống đối. Khởi đầu là như thế, nhưng những
người rao giảng trong cộng đoàn Ki-tô hữu đã áp dụng dụ ngôn gieo giống vào cuộc
sống với những bài học luân lý (4,14-20).
Bản
văn 4,3-8 (dụ ngôn) và 4,14-20 (áp dụng) có những chi tiết khác nhau cho thấy
khoảng cách giữa hai thời kỳ: (1) thời Đức Giê-su và (2) thời cộng đoàn Mác-cô.
Tuy nhiên, khẳng định lời nào trong Tin Mừng là của Đức Giê-su và lời nào của cộng
đoàn là không thể thực hiện được, vì cả hai được hòa lẫn với nhau. Tin Mừng kể
lại câu chuyện thời Đức Giê-su vào những năm 30, nhưng lại viết cho cộng đoàn
vào những năm 70 nên trong trình thuật Tin Mừng có những gợi ý về hoàn cảnh,
cách sống, cách suy nghĩ của cộng đoàn; cũng như những khó khăn thử thách từ
bên trong hay bên ngoài mà cộng đoàn đang trải qua, chẳng hạn cộng đoàn đang bị
bách hại vì niềm tin vào Đức Giê-su. Vậy không nên hiểu đơn giản là những gì có
trong bản văn đều xuất phát từ môi miệng Đức Giê-su. Điều quan trọng là tác giả
sách Tin Mừng với ơn linh hứng viết Tin Mừng nhằm chuyển tải thông điệp mặc khải
cho cộng đoàn và cho độc giả qua mọi thời đại. Độc giả có thể nhận ra dấu ấn của
cộng đoàn trong phần giải thích dụ ngôn (4,14-20). Người thuật chuyện dùng từ
“logos” (Lời) để chỉ nội dung giảng dạy của Đức Giê-su. “Gieo lời” cũng là sứ vụ
rao giảng của cộng đoàn. Phần giải thích dụ ngôn cho thấy bận tâm của cộng đoàn
tiên khởi trong việc rao giảng và giải thích lời Đức Giê-su.
Phần
sau tìm hiểu đoạn văn áp dụng dụ ngôn gieo giống (Mc 4,13-20) qua 5 mục: (1) cấu
trúc 4,13 và tầm quan trọng của dụ ngôn gieo giống; (2) so sánh dụ ngôn (4,3-8)
và áp dụng dụ ngôn (4,14-20); (3) giải thích đoạn văn 4,14-20; (4) các loại đất
trong dụ ngôn là ai?; (5) dụ ngôn gieo giống và độc giả.
1. Cấu trúc 4,13 và tầm quan trọng dụ ngôn gieo giống.
Đoạn
văn 4,13-20 mở đầu bằng hai câu hỏi của Đức Giê-su ở 4,13 cho thấy tầm quan trọng
của dụ ngôn gieo giống. Câu 4,13 có cấu trúc đồng tâm A, B, C, C’, B’, A’ theo
ba đề tài A//A’: không hiểu biết – hiểu biết; B//B’: dụ ngôn số ít và số nhiều;
C//C’: trường hợp cụ thể “dụ ngôn này” soi sáng cho “tất cả”. Kiểu cấu trúc đặc
biệt ngắn ngọn này được trình bày song song tiếng Việt và tiếng Hy-lạp như sau:
Mc
4,13 gồm hai câu hỏi. Bản văn N-A27e gộp 2 câu thành một câu hỏi và để dấu phẩy
cuối câu thứ nhất: “Anh em không hiểu biết dụ ngôn này, thì làm sao anh em hiểu...?”
Bản văn BYZ dùng hai lần dấu hỏi (?). Theo kiểu hành văn Mác-cô, nên hiểu đâu
là hai câu hỏi đặt cạnh nhau. Hai câu hỏi này cùng với lời kêu gọi ở đầu dụ
ngôn “Các ngươi hãy nghe” (4,3) mời gọi độc giả cần chú ý lắng nghe để hiểu.
Đức
Giê-su nói đến “dụ ngôn” (số ít) ở 4,13a trong khi các môn đệ hỏi Đức Giê-su về
“các dụ ngôn” (số nhiều) ở 4,10. Câu 4,13 có cấu trúc đồng tâm, dụ ngôn số ít
(B) song song với dụ ngôn số nhiều (B’) cho thấy dụ ngôn gieo giống là chìa
khoá để hiểu tất cả các dụ ngôn khác. Nếu không hiểu dụ ngôn này thì sẽ không
hiểu được tất cả các dụ ngôn khác. Vậy cần tìm hiểu kỹ ý nghĩa dụ ngôn này.
Trong câu 4,13, lần đầu tiên Đức Giê-su trách các môn đệ không hiểu. Đề tài các
môn đệ “không hiểu” sẽ được nhấn mạnh trong những đoạn văn tiếp theo sách Tin Mừng.
Xem bài viết: “Anh em ngu muội như thế sao?” (Mc 7,18) Hành trình các môn đệ
nói gì với độc giả?
2. So sánh dụ ngôn (4,3-8) và áp dụng (4,14-20)
Trong
phần dụ ngôn (4,3-8), mỗi trường hợp có hai yếu tố: (a) nơi hạt giống rơi xuống
và (c) kết quả. Trong phần áp dụng dụ ngôn (4,14-20), mỗi trường hợp gồm ba yếu
tố: (a) nhắc lại loại đất nơi hạt giống được gieo xuống đã nói đến trong dụ
ngôn; (b) mô tả cách thức nghe và thái độ đón nhận lời; (c) kết quả.
Ba lời
giải thích đầu tiên (4,15-19) kèm theo những yếu tố khác nhau làm cho hạt giống
không phát triển được. Qua đó cho thấy lý do tại sao lời Thiên Chúa không hiệu
quả. Những lý do cản trở này mang màu sắc luân lý.
Phần dụ
ngôn (4,4-8) nhấn mạnh chiều kích “không gian”, có hạt rơi xuống vệ đường, có hạt
rơi trên sỏi đá, có hạt rơi vào bụi gai, có hạt rơi vào đất tốt. Trong khi phần
áp dụng nhấn mạnh yếu tố “thời gian”: Trước là rơi xuống vệ đường, sau đó bị lấy
mất... và chú trọng đến hoàn cảnh người đón nhận.
Phần
áp dụng đồng hoá hạt giống với người nghe Lời qua kiểu nói: “những kẻ thuộc loại
được gieo vào...”. Về trường hợp đất tốt, trong dụ ngôn là “hạt giống sinh hoa
trái” (4,8), còn trong phần áp dụng là “họ sinh hoa trái” (4,20).
3. Giải thích đoạn văn Mc 4,14-20
4,14:
“Người gieo giống gieo Lời.” Câu này không cho biết người gieo giống là ai,
nhưng nói rõ hạt giống trong dụ ngôn là Lời. Danh từ “Lời” (logos) là thuật ngữ
Hội Thánh tiên khởi nói về loan báo tin mừng (Cv 4,4; 6,4; 8,4; 10,44; 11,19;
17,11; 19,20; Gl 6,6; Col 4,3; 2Tm 4,2; 1P 2,8; 3,1). Từ “Lời” (logos) ở Mc
4,14 không có bổ túc từ, nên không xác định là lời của ai. Bản văn không xác định
để độc giả hiểu nhiều cấp độ: Lời Thiên Chúa, lời Đức Giê-su, lời rao giảng của
cộng đoàn Mác-cô.
4,15:
“Những kẻ thuộc loại ở bên vệ đường, nơi Lời đã gieo xuống, là những kẻ vừa
nghe thì ngay lập tức Xa-tan đến và lấy đi Lời đã được gieo nơi họ.”
-
4,15a: “Những kẻ thuộc loại: ở bên vệ đường, nơi Lời đã gieo xuống”. Phần áp dụng
dụ ngôn nói về “đất đón nhận lời” và không phân biệt “hạt giống” (Lời) và “đất
đón nhận Lời”. Trong dụ ngôn (4,3-8), “con người” đồng hoá với “loại đất” nơi hạt
giống được gieo và “Lời” đồng hoá với “hạt giống”, còn trong phần áp dụng
(4,14-20) “con người” lại được đồng hoá với “hạt giống” qua kiểu nói: “những kẻ
thuộc loại ở bên vệ đường” (4,15), nghĩa là những kẻ thuộc loại hạt giống rơi
bên vệ đường (x. 4,16.18). Phần dụ ngôn (4,4-8) phân biệt 3 điều: (a) “người
gieo giống”; (b) hành động “gieo giống”; (c) “nơi hạt giống rơi xuống”. Dụ ngôn
phân biệt “hạt giống” và “đất đón nhận hạt giống”, trong khi phần áp dụng (4,14-20) chỉ chú trọng vào người
đón nhận hạt giống.
-
4,15b: “Xa-tan”. Nhân vật này xuất hiện trong phần áp dụng, còn trong dụ ngôn
là “chim chóc” (4,4). Hình ảnh loài chim nói về Xa-tan tìm thấy trong sách
Jubilé (Jub 11,11) và Apocalypse d’Abraham (Ap Abr 13,3-8). (Xem các bản văn
này trong A. Dupont-Sommer; M. Philonenko, (dir.), La Bible, écrits
intertestamentaires, (Bibliothèque de la Pléiade), Paris, Gallimard, 1987).
Xa-tan là kẻ chống lại Thiên Chúa, cản trở Lời phát triển nơi người nghe. “Lời”
và “người nghe” chưa có tương quan, chưa gắn kết được với nhau thì đã bị Xa-tan
lấy mất.
“Lập tức
Xa-tan đến và lấy đi Lời đã gieo nơi họ”. Câu này gợi đến nhân vật Phê-rô. Sau
khi ông tuyên xưng Đức Giê-su là “Đấng Ki-tô” (8,29) lại ứng xử như Xa-tan:
ngăn cản chương trình của Thiên Chúa. Đức Giê-su nói với ông ở 8,33: “Hãy đi
sau Thầy! Xa-tan!” Hạt giống tốt đã gieo vào Phê-rô qua lời tuyên xưng, nhưng
Xa-tan đã làm cho ông thuộc về nó.
4,16-17:
“16 Những kẻ thuộc loại được gieo trên sỏi đá, là những kẻ khi nghe Lời lập tức
vui vẻ đón nhận Lời, 17 họ không có rễ nơi mình lại còn nông nổi nhất thời; sau
đó, xảy đến sự khốn khó hay bách hại vì Lời, lập tức họ bị vấp ngã.”
-
4,16: “Những kẻ thuộc loại được gieo trên sỏi đá, là…” Trường hợp thứ hai này
có những yếu tố mới so với trường hợp thứ nhất (4,15). Người ta không chỉ nghe
mà còn đón nhận và đón nhận cách vui vẻ. Nhưng lại không có rễ sâu để đứng vững
trước sóng gió.
-
4,17: “xảy đến sự khốn khó hay bách hại vì Lời, lập tức họ bị vấp ngã”. Điều
làm họ vấp ngã đến từ bên ngoài. Đó là những khó khăn và bách hại. Khi niềm tin
đòi hỏi phải trả giá, nghĩa là “đón nhận lời” đồng nghĩa với thiệt thòi, mất
mát, khổ đau. Đặc biệt nguyên nhân vấp ngã là “vì Lời” và cũng chính “Lời” đem
lại niềm vui và sức sống. Có khả năng đón nhận cả hai khía cạnh này của “Lời” mới
là người thực sự nghe Lời. Câu giải thích này gợi đến hoàn cảnh cộng đoàn bị
bách hại.
4,18-19:
“18 Những người khác là những kẻ được gieo vào bụi gai. Đây là những kẻ đã nghe
Lời, 19 nhưng những lo lắng sự đời, bả vinh hoa phú quý và những đam mê về những
điều khác đến bóp nghẹt Lời và không sinh hoa trái.”
4,18:
“Đã nghe Lời (akousantes)” là động tính từ, thì quá khứ aoriste của động từ
“akouô” (nghe). Hai lần trước (4,15.16) động từ này được dùng ở lối tiếp thuộc
aoriste: “akousôsin” có nghĩa mong muốn nghe chứ chưa nghe. Vậy, loại người ở
4,18 đã thực sự nghe được Lời (động từ ở thì quá khứ aoriste).
4,19a:
“những đam mê về những điều khác đến bóp nghẹt Lời”. Hình ảnh “bụi gai” (4,18)
diễn tả yếu tố bóp nghẹt lời. Trường hợp thứ ba này nói về những điều bên trong
con người gây trở ngại cho Lời. Những bận tâm sự đời làm cho Lời không có không
gian và không đủ thời gian để phát triển, nên bị bóp nghẹt, bị ngộp, bị chết yểu,
suy dinh dưỡng.
4,19b:
“Không sinh hoa trái”. Dịch sát: “và trở thành (ginetai) không có trái
(akarpos)”. Tiếp đầu ngữ “a-” có nghĩa phủ định: “không”.
4,20:
“Còn những người thuộc loại được gieo trên đất tốt, đó là những người nghe Lời
và đón nhận và họ sinh hoa trái, kẻ được ba mươi, kẻ được sáu mươi, kẻ được một
trăm.”
-
4,20b: “Những người nghe Lời và đón nhận”. Trong phần áp dụng dụ ngôn, ở đây xuất
hiện lần đầu tiên động từ “akouô” (nghe) ở thì hiện tại, lối trình bày:
“akouousin”. Trước đây, động từ này chia ở thì quá khứ aoriste, ở lối tiếp thuộc
hay ở lối động tính từ. Động từ “đón nhận” (paradekhomai) cũng chia ở thì hiện
tại: “paradekhontai”. Như thế, người thuộc loại này đã thực sự “nghe” và “đón
nhận” Lời. Hai động từ thì hiện tại trên diễn tả ý tưởng kéo dài trong quá
trình nghe và đón nhận: Nghe và đón nhận mọi nơi, mọi lúc và không bao giờ kết
thúc. Nghĩa là nghe và đón nhận Lời suốt đời, trong mọi hoàn cảnh.
-
4,20c: “họ sinh hoa trái”. Nghe và đón nhận Lời ở 4,20b là điều mới mẻ so với
cách nghe và đón nhận trong những trường hợp trước: nghe mà không sinh hoa
trái. Nghe và đón nhận trong trường hợp thứ tư (4,20) không phải hời hợt bên
ngoài. Lời đã thấm sâu vào tâm trí, trở thành máu thịt, trở thành nguồn sức sống
cho người nghe. Nhờ sức mạnh của Lời, người đón nhận vượt qua mọi thử thách bên
ngoài (bách hại), cám dỗ bên trong (lo lắng sự đời).
Tóm lại
so sánh dụ ngôn (4,4-8) và áp dụng dụ ngôn (4,14-20) cho thấy một số điểm khác
nhau. Dụ ngôn gieo giống (4,1-9) giúp hiểu phần áp dụng dụ ngôn (4,13-20), chứ
không phải phần áp dụng giúp hiểu dụ ngôn gieo giống (4,1-9). Dụ ngôn gieo giống
(4,1-9) tự nó phong phú hơn nhiều. Phần áp dụng chỉ là một trong những cách hiểu.
Như đã trình bày trong phân tích, dụ ngôn 4,1-9 giải thích tại sao công việc
rao giảng của Đức Giê-su lại bị chống đối và có những người không tin. Còn phần
áp dụng (4,14-20) lại cho biết những lý do luân lý khiến Lời không sinh hoa
trái. “Hạt giống rơi vào đất tốt” trong dụ ngôn (4,8a) được hiểu là “những kẻ
được gieo vào đất tốt” trong phần áp dụng dụ ngôn (4,20a).
4. Các loại đất trong dụ ngôn là ai?
Nếu đọc
hết Tin Mừng Mác-cô có thể nhận ra những loại đất được nói đến trong dụ ngôn:
Lề đường:
- Các
kinh sư.
- Những
người Pha-ri-sêu.
- Những
người thuộc phe Hê-rô-đê.
- Giới
lãnh đạo Do-thái ở Giê-ru-sa-lem.
Đất sỏi
đá:
- Các
môn đệ (4,40; 7,18; 8,17.21; 14,50).
-
Phê-rô (8,29-33; 14,66-42).
-
Gia-cô-bê và Gio-an (10,35-40).
Trong
bụi gai:
-
Hê-rô-đê (6,20).
- Người
thanh niên giàu có (10,17-22).
Đất tốt:
- Các
môn đệ sau biến cố Phục Sinh.
- Cộng
đoàn người tin qua mọi thời đại.
Về
phía độc giả, dụ ngôn không chỉ mô tả thái độ các nhân vật trong câu chuyện mà
câu chuyện muốn nhắn gửi độc giả hai điều: (1) Đối diện với Lời, độc giả thuộc
loại đất nào? (2) Khi rao giảng Lời, đừng nản chí khi thấy Lời không được nghe
và đón nhận. Hãy xác tín vào kết quả cuối cùng của Lời.
5. Dụ ngôn gieo giống và độc giả
Dụ
ngôn gieo giống như Đức Giê-su rao giảng (4,3-9), khởi đầu được áp dụng cho sứ
vụ rao giảng của Người. Sau đó dụ ngôn được áp dụng vào đời sống cộng đoàn
Mác-cô (4,14-20), và áp dụng vào sứ vụ rao giảng Lời của Hội Thánh. Tự nó, dụ
ngôn có nhiều cách áp dụng khác nhau tuỳ theo hoàn cảnh. Trước hết, dụ ngôn
không nói đến trách nhiệm của người gieo lời, cũng không quy trách nhiệm cho chất
lượng hạt giống. Vậy độc giả có thể áp dụng dụ ngôn thế nào?
1. Lời
gieo trên vệ đường: Độc giả có thể nghe, đọc và hiểu biết “Lời” trong Tin Mừng nhưng Lời không có tương quan với cuộc đời độc
giả, nghĩa là hạt giống còn nằm trên mặt đất khô cằn, không có nối kết giữa Lời
và độc giả để hạt giống phát triển. Cách thức nghe, đọc và học hỏi giáo huấn của
Đức Giê-su như trên sẽ không sinh hoa kết quả, nghĩa là Lời không mang lại sự sống
cho người đọc.
2. Lời
gieo trên đất sỏi đá: Đón nhận lời thì “mọc ngay” (4,5) hay “lập tức vui vẻ đón
nhận” (4,16), nhưng “không có rễ nơi mình” (4,6.17). Khi mặt trời mọc lên,
nghĩa là lúc phải đương đầu với khó khăn thử thách thì không chịu nổi, nên Lời
đã gieo bị chết khô. Giáo huấn của Đức Giê-su tuy hấp dẫn, thích nghe nhưng chẳng
mấy chốc không còn gì nữa vì động lực đến với Lời chỉ hời hợt bên ngoài.
3. Lời
gieo vào bụi gai: Gai mọc lên làm cho cây chết nghẹt. Những ưu tư, bận tâm cuộc
sống làm cho Lời không phát triển đủ để sinh hoa trái. Những gì đã đọc, đã học,
đã biết về “Lời” không áp dụng được vào hoàn cảnh cụ thể. Những hiểu biết về
giáo huấn của Đức Giê-su vẫn chỉ là những kiến thức trong sách vở, có kiến thức
mà không biết để làm gì, không giúp gì cho cuộc sống, nghĩa là Lời không sinh
hoa trái trong cuộc đời.
4. Lời
gieo vào đất tốt: Dụ ngôn không nói đất tốt thế nào, nhưng dựa vào “sinh hoa
trái” để biết là đất tốt. Việc lắng nghe và đón nhận Lời đem lại sức sống và
làm cho độc giả có khả năng đứng vững trước mọi thử thách. Trong mọi hoàn cảnh,
Lời mang lại bình an và niềm vui đích thực cho người biết lắng nghe. Hoa trái của
người biết nghe và đón nhận thực sự sẽ lan toả trong môi trường sống.
Kết luận
Những
ý tưởng mới trong phần áp dụng dụ ngôn (4,14-20) so với dụ ngôn gieo giống
(4,1-9) cho thấy sự phong phú của cách giảng dạy bằng dụ ngôn. Dụ ngôn tự nó là
hình ảnh có khả năng mở ra nhiều áp dụng khác nhau tuỳ theo hoàn cảnh. Đối với
độc giả, vấn đề không phải là thu thập nhiều kiến thức về giáo huấn của Đức
Giê-su nhưng là cách đón nhận Lời. Khả năng đón nhận và kết quả có khác nhau. Dụ
ngôn nói đến ba cấp độ sinh hoa trái: ba mươi, sáu mươi hay một trăm. Kết quả
không đồng đều vì khả năng mỗi người khác nhau. Điều bản văn nhấn mạnh là “sinh
hoa trái” hay “không sinh hoa trái” chứ không phải sinh bao nhiêu hoa trái. Nhờ
dành cho Lời một vị trí xứng đáng trong lòng mình, độc giả sẽ cảm nghiệm được sự
ngọt ngào, thú vị và sức mạnh hoa trái của Lời trong cuộc đời./.
Nguồn:
http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2020/06/mc-413-20-ap-dung-du-ngon-gieo-giong.html