HIỆP
SỐNG TIN MỪNG
CHÚA
NHẬT 2 MÙA CHAY A
St
12,1-4a ; 2 Tm 1,8b-10 ; Mt 17,1-9
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 17,1-9.
(1)
Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em
ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới
một ngọn núi cao. (2) Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các
ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên
trắng tinh như ánh sáng. (3) Và kìa các ông thấy ông Mô-sê và ông
Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người. (4) Bấy giờ ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su
rằng: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay ! Nếu Ngài muốn, con
xin dựng tại đây ba cái lều. Ngài một cái, ông Mô-sê một cái, và ông
Ê-li-a một cái”. (5) Ông còn đang nói, thì kìa có đám mây sáng ngời
bao phủ các ông, và kìa có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là Con yêu
dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời
Người!”. (6) Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất.
(7) Bấy giờ Đức Giê-su lại gần, chạm vào các ông và bảo: “Trỗi dậy
đi, đừng sợ!”. (8) Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn
một mình Đức Giê-su mà thôi. Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức
Giê-su truyền cho các ông rằng: “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho
đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy”.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng thuật lại việc Đức Giê-su
biến hình trên một núi cao trước mặt ba môn đệ thân tín là Phê-rô,
Gia-cô-bê và Gio-an. Mặt Người chiếu sáng như mặt trời. Áo người trở
nên trắng như tuyết. Có hai nhân vật Cựu Ước là Mô-sê và Ê-li-a hiện
ra đàm đạo với Người, có tiếng Chúa Cha giới thiệu Người là Con yêu
dấu và đòi các môn đệ phải vâng nghe lời Người. Ba môn đệ từ vui
mừng đến khiếp sợ khi đối diện với vinh quang Thiên Chúa.
3. CHÚ THÍCH:
-
C 1-2: +Các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và
Gio-an là em ông Gia-cô-bê: Đây
là ba môn đệ thân tín nhất của Đức Giê-su. Các ông là những người
nhiệt thành yêu mến Thầy, và được trao các nhiệm vụ then chốt, nên
Đức Giê-su đã cho các ông thấy trước vinh quang của Người, để thêm
lòng tin, hầu đủ sức vượt qua giờ phút đau thương trong cuộc khổ nạn
của Người (x. Mt 26,37). + Một ngọn núi cao: Theo truyền
thống xa xưa, thì đó là ngọn Ta-bo. Tuy núi này chỉ cao 360 m so với
Địa Trung Hải, nhưng nằm trên cánh đồng rộng lớn Ét-rê-lon, cũng gây
cho người ta cảm tưởng một ngọn núi cao. Ngày nay nhiều người nghĩ
tới ngọn Khéc-môn cao 2.795 m gần thành Xê-da-rê của Phi-líp-phê. Đi từ
Xê-da-rê tới nơi mất khoảng 5 ngày đường như Tin Mừng đã viết. Tuy
nhiên có lẽ khi viết câu này, Mát-thêu chỉ chú trọng đến ý nghĩa
tượng trưng của Núi: Núi là nơi khởi đầu và kết thúc mặc khải của
Thiên Chúa đối với Mô-sê thời Cựu Ước hay với Đức Giê-su thời Tân Ước
(x. Mt 5,1; 28,16). Núi cũng là nơi quy tụ muôn người nên một trong Nước
Trời trong thời cánh chung (x. Mt 15,29; Is 2,2-3). + Người biến đổi hình dạng
trước mặt các ông: Đức Giê-su tỏ bày Thiên tính vinh quang của
Người cho các môn đệ thấy. Trong thời Xuất Hành, sau mỗi lần đàm đạo
với Đức Chúa, mặt Mô-sê sáng chói, đến nỗi dân Ít-ra-en sợ không dám
lại gần ông (x. Xh 34,29-30). + Dung nhan Người chói lọi như mặt
trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng: “Chói
lọi như mặt trời” là biểu hiện của sự thuộc về thiên quốc (x. Mt 28,3;
Cv 9,3) và thời cánh chung (x. Kh 1,14; 4,4). Theo thể văn khải huyền
thì y phục trắng tinh giống như ánh sáng là biểu hiện vinh quang thiên
giới dành cho những người được Thiên Chúa tuyển chọn.
-
C 3-4: + Ông Mô-sê và ông Ê-li-a: Hai ông này tượng trưng cho Luật
Mô-sê và các ngôn sứ, nghĩa là cho toàn bộ Cựu Ước. Như thế tất cả
Cựu Ước đều hiện diện để làm chứng và tôn vinh Đức Giê-su. Hai vị
này đàm đạo với Đức Giê-su về cái chết của Người sắp được thực
hiện tại Giê-ru-sa-lem như một cuộc Xuất Hành Mới (x. Lc 9,31). Như
vậy, toàn bộ khung cảnh biến hình này đều qui hướng về cuộc Thương
Khó và Phục Sinh của Đức Giê-su. + Dựng ba cái lều: Theo truyền
thống Do thái thì Thiên Đàng được gọi là “Lều vĩnh cửu” hay “Nhà
tạm đời đời” (x. Lc 16,9). Vào thời cuối cùng, Thiên Chúa sẽ ngự
giữa dân Người trong lều vinh quang của Người, và dân chúng sẽ cắm
lều quanh Đấng Cứu Thế (x. Ga
1,14).
-
C 5-6: + Đám mây sáng ngời bao phủ
các ông: Trong
Cựu Ước, khi tiếp xúc với dân Ít-ra-en, Đức Chúa thường xuất hiện
trong đám mây (x. Xh 24,15-16). Ở đây, Thiên Chúa dùng mây che phủ các
ông, để nói lên sự can thiệp đặc biệt như Người đã từng cho mây rợp
bóng trên dân Ít-ra-en xưa (x. Xh 13,21; 14,19-20), hay “rợp bóng” trên
Đức Ma-ri-a vào ngày sứ thần truyền tin sau này (x. Lc 1,35). + Đây
là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe
lời Người: Lời này nhắc lại lời Chúa Cha phán khi Đức Giê-su
chịu phép rửa (x. Mt 3,17). Nhưng ở đây còn thêm mệnh lệnh cho các môn
đệ: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Qua đó, cho thấy Đức Giê-su
chính là vị Mô-sê Mới thời cánh chung sẽ xuất hiện thay thế cho Mô-sê
cũ thời Xuất Hành (x. Đnl 18,15). + Các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt
xuống đất: Thái độ và cử chỉ của các môn đệ là phản ứng
người ta thường có khi tiếp xúc với Thiên Chúa (x. Xh 19,21; Is 6,5).
-
C 7-9: + “Trỗi dậy đi, đừng sợ!”: Đức Giê-su đã ra lệnh các môn đệ
giống như khi Người phục sinh đứa bé gái con viên thủ lãnh (x. Mt 9,25). +
Chỉ còn một mình Đức Giê-su mà thôi: Khi tiếng nói vừa dứt,
thì mọi sự cũng tan biến theo. Từ đây, chỉ còn một mình Đức Giê-su
là Thầy dạy của Luật mới, Luật hoàn hảo và vĩnh viễn. +
“Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi
dậy”: Lệnh truyền: “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy” cho thấy
một mầu nhiệm lớn lao vừa được mặc khải (x. Đn 12,4.9). Có lẽ Đức Giê-su
muốn tránh sự xáo trộn về chính trị, vì dân Do thái lúc bấy giờ đang
trông chờ một Đấng Thiên Sai đến giải phóng họ khỏi ách thống trị
của Rô-ma. Chỉ sau khi Chúa Giê-su sống lại thì vai trò của Người mới
được hiểu cách đúng đắn theo thánh ý Thiên Chúa.
4. CÂU HỎI:
1)
Tại sao ba ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an lại được Đức Giê-su cho chứng
kiến cảnh Người biến hình? 2) Núi cao nói đây là núi nào? Thực ra,
Núi ở đây ám chỉ điều gì? 3) Thời Xuất Hành, nhân vật nào cũng
được biến hình giống như Đức Giê-su? 4) Việc Đức Giê-su biến đổi dung
nhan và áo mặc mang ý nghĩa gì? 5) Hai ông Mô-sê và Ê-li-a là đại
diện điều gì? Nội dung hai ông đàm đạo với Đức Giê-su xoay quanh đề tài
nào? 6) Lều là hình ảnh tượng trưng điều gì? 7) Đám mây bao phủ các
môn đệ tượng trưng gì? 8) Lời Chúa từ đám mây khẳng định thế nào về
Đức Giê-su? 8) Tại sao Đức Giê-su đòi ba môn đệ phải giữ kín điều họ mới
được chứng kiến?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Rồi Người biến đổi
hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời,
và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17,2).
2. CÂU CHUYỆN:
1) HOÀNG TỬ GÙ LƯNG:
Tập nhân đức trái với thói hư là phương
thế giúp nên hoàn thiện.
Có một hoàng tử kia đẹp trai lại
văn võ song toàn. Nhất là luôn khiêm tốn hòa nhã, nên rất được vua cha
và bá quan trong triều nể phục. Hoàng tử chỉ có một khuyết điểm duy
nhất là cái tật gù lưng từ lúc mới sinh. Chính vì mang dị tật ấy
mà chàng bị mặc cảm tự ti và không dám xuất hiện trước công chúng.
Triều đình có cái lệ này là tạc tượng các nhân vật trong hoàng tộc
khi họ được 20 tuổi. Bức tượng ấy sẽ được trưng bày tại viện bảo
tàng quốc gia cho thần dân chiêm ngưỡng. Năm đó, hoàng tử vừa tròn 20
tuổi. Dù không muốn cho người ta tạc tượng, nhưng không dám trái lệnh
vua cha, chàng chỉ yêu cầu hai điều và được vua cha chấp thuận: Một
là bức tượng của chàng phải được tạc trong tư thế đứng thẳng chứ
không bị gù lưng. Hai là bao lâu chàng còn sống thì chỉ được đặt bức
tượng ấy tại phòng riêng của chàng.
Từ khi có bức tượng trong phòng, mỗi
ngày hoàng tử đều đến trước tượng ngắm nhìn hình ảnh của mình.
Chàng rất thích dáng vẻ hiên ngang của bức tượng, và cố bắt chước
tư thế của bức tượng. Sau một thời gian, mọi người đều ngạc nhiên
nhận thấy hoàng tử đã được biến đổi không còn bị gù lưng như trước
nữa. Trái lại chàng có dáng vẻ hiên ngang oai vệ giống hệt bức
tượng trong phòng của chàng. Sau khi sửa được cái tật gù lưng, hoàng tử
đã đồng ý cho trưng bày bức tượng của mình tại viện bảo tàng quốc
gia cho thần dân mặc sức chiêm ngưỡng.
Trong Mùa Chay này, chúng ta cần tìm ra
mối tội đầu là thói xấu quan trọng đang mắc phải và quyết tâm làm các việc cụ
thể thuộc nhân đức đối lập để khắc phục thói hư.
2) TU THÂN, TỀ GIA, TRỊ QUỐC, BÌNH THIÊN
HẠ:
Cần thay đổi bản thân trước hết. Một nhà
giáo dục nổi tiếng người Pháp đã tâm sự về cuộc đời của ông như sau: Khi còn
trẻ, tôi có tinh thần cách mạng và mỗi khi cầu nguyện, tôi luôn cầu xin Chúa
một điều là: "Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi thế giới
này".
Khi đã lớn tuổi và nhận thấy gần quá nửa
đời người trôi qua mà tôi không thay đổi được một người nào hết, nên tôi đã
thay đổi lời cầu nguyện của tôi như sau: "Lạy Chúa, xin ban cho con nghị
lực để biến đổi những người trong gia đình của con.”
Giờ đây tôi đã già và những ngày còn lại
chỉ đếm được trên đầu ngón tay, nên lời cầu nguyện của tôi lại được thay đổi
một lần nữa như sau: "Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi chính
mình con."
Và ông kết luận: “Nếu tôi biết cầu
nguyện như thế này từ ngày còn trẻ thì tôi đã không uổng phí cả cuộc đời.”
(Anthony de Mello, Trích trong “The Song
of the Bird”)
3) SƯ TỬ NGẠO MẠN ĐÃ TỰ HẠI MÌNH:
“cái tôi” ích kỷ tự mãn là kẻ thù lớn
nhất. Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Ngày xưa thỏ và sư tử sống gần nhau,
nhưng sư tử rất kiêu ngạo, vẫn cho mình là to khoẻ nên xem thường loài thỏ. Sư
tử thường mắng thỏ và doạ nạt thỏ suốt ngày. Thỏ tức mình không chịu nổi mới
nghĩ ra cách báo thù.
Một lần kia nó nói với sư tử rằng: “Thưa
ông anh, em vừa gặp một thằng to lớn và trông giống anh lắm. Nó bảo em rằng:
"Trên đời này nó chưa sợ ai, và cũng chưa ai dám đối mặt với nó".
Thằng cha này không coi ai ra gì cả!
Sư tử tức giận và bảo rằng: "Thế
mày có nhắc đến tên tao không?"
Thỏ trả lời: “Sao lại không? Em vừa nhắc
đến tên anh thì nó lồng lộng lên và bảo rằng anh chỉ đáng đàn em nó thôi”.
Sư tử càng tức điên người lên và hỏi: “Nó
ở đâu? dẫn tao đến ngay”.
Thỏ liền dẫn sư tử ra phía sau núi, và
chỉ một cái giếng sâu và bảo: “Đấy, nó ở trong đó đấy!”. Sư tử đi lại gần giếng
vẻ mặt căm tức nhìn xuống đáy giếng. Quả thực, nó trông thấy một tên sư tử cặp
mắt giận dữ đang trừng trừng nhìn nó. Sư tử liền rống lên một tiếng ra oai và tên
kia cũng rống lên một tiếng giống như nó. Sư tử xù lông cổ lên và tên kia cũng
xù lông cổ lên không sợ hãi. Sư tử nhe nanh múa vuốt đe doạ, tên kia cũng hăm
dọa lại. Sư tử căm tức đến tột độ liền dồn hết sức nhảy phốc xuống giếng để cho
thằng khốn nạn kia một bài học. Thế là, con sư tử ngạo mạn đã tự huỷ diệt đời
mình dưới giếng sâu không sao trèo lên được nữa...
Trong các thói hư thì thói kiêu ngạo
đứng hàng đầu, thể hiện qua thái độ luôn tự mãn về cái tôi ích kỷ của mình,
thích được người khác khen ngợi xu nịnh hoặc hay tự đề cao mình lên và coi thường
người khác, luôn lấn át những người thân cô thế cô hoặc những ai yếu thế hơn
mình.
4) BIẾN TỪ NGƯỜI TỐT THÀNH KẺ XẤU CHỈ SAU
VÀI NĂM PHÓNG ĐÃNG:
Nhiều người đã được trông thấy bức ảnh rất
nổi tiếng của nhà danh hoạ LEONARD DE VINCI, trong đó có các hình ảnh của Chúa Giê-su
với 12 tông đồ đang ăn Bữa Tiệc Ly. Sau đây là câu chuyện về sự hình thành của
bức tranh này:
Sau khi sơ phác bức tranh, họa sĩ Leonard
muốn tìm một khuôn mặt nhân hậu bao dung và đẹp đẽ, để làm mẫu vẽ khuôn mặt cực
thánh của Chúa Giê-su, thì may mắn làm sao: một ngày nọ khi tham dự thánh lễ
tại một nhà thờ nọ, ông nhìn thấy trong đám ca viên hát lễ, có một thanh niên
tên Pietro Bandenelli, có nét mặt khôi ngô phi thường. Sau một hồi tiếp xúc,
cậu ta đã bằng lòng theo họa sĩ về xưởng tranh để làm mẫu cho ông vẽ khuôn mặt
của Chúa Giê-su.
Sau đó, họa sĩ tiếp tục dành nhiều thời
gian để vẽ các khuôn mặt 12 tông đồ. Khi vẽ khuôn mặt của Giu-đa phản bội, ông
tìm mãi mà không thể tìm ra một con người có nét mặt vừa gian ác vừa xấu xí để làm
mẫu vẽ tông đồ này. Một hôm khi đi qua một khu chợ, tình cờ họa sĩ nhìn thấy một
gã ăn mày bên lề đường có khuôn mặt rất gian ác xấu xa, quần áo nhếch nhác bẫn
thỉu, đang giơ chiếc nón ra xin ông làm phúc bố thí. Họa sĩ thầm nghĩ: Có lẽ
đây chính là kẻ mình muốn tìm. Dù có đi hết các phố chợ trong thành phố cũng
chẳng thể tìm ra kẻ nào có khuôn mặt xấu xa gian ác hơn gã ăn mày này. Ông đề
nghị anh ta làm người mẫu với một số tiền thù lao khá hậu hĩnh và anh ta đã vui
vẻ theo ông về xưởng vẽ, giúp ông hoàn thành bức họa chỉ còn thiếu khuôn mặt
của Giu-đa phản bội.
Sau khi đã ngồi làm người mẫu và nhận
tiền thù lao, trước khi ra về, gã ăn mày yêu cầu và được họa sĩ cho xem bức
tranh hoàn tất. Đột nhiên gã ta bật khóc, và khi được hỏi lý do thì gã đã tâm
sự như sau: “Ông quên tôi rồi sao? Cách đây mấy năm, tôi cũng được ông mời đến
đây làm người mẫu giống như hôm nay. Lúc đó ông đã khen tôi có khuôn mặt đẹp
như thiên thần và ông lấy tôi làm mẫu vẽ khuôn mặt của Chúa Giê-su... Nhưng sau
đó, tôi đã lỡ dại nghe theo bạn bè, sa đà vào các thói hư như rượu chè, hút
chích, chơi bời trác táng và nợ nần chồng chất. Tôi đã phải đi trộm cướp rồi bị
cảnh sát bắt đi tù. Khi được thả, sức khỏe bị suy yếu và không nghề nghiệp, tôi
rơi vào cảnh đói khát bần cùng, phải đi ăn xin như ông đã thấy”.
Phải. Đây chính là câu chuyện điển hình
của một cuộc biến đổi hình dạng: từ một khuôn mặt tốt đẹp thánh thiện ban đầu
trở thành xấu xa gian ác chỉ sau mấy năm chơi bời trác táng!
3. SUY NIỆM:
1) CÂU CHUYỆN BIẾN HÌNH CỦA ĐỨC GIÊ-SU:
Tin Mừng thuật lại câu chuyện Đức
Giê-su biến hình trước mặt ba môn đệ thân tín là các ông: Phê-rô,
Gia-cô-bê và Gio-an. Chính khi ở trên núi cao và trong lúc Đức Giê-su
đang cầu nguyện sốt sắng, mà các môn đệ đã nhìn thấy khuôn mặt của
Người biến đổi: Dung nhan Người trở nên sáng ngời như Mô-sê xưa kia, sau
khi ông được gặp gỡ Đức Chúa (x. Xh 34,29-35); Y phục của Đức Giê-su trở
thành trắng tinh như ánh sáng là biểu hiện vinh quang thiên giới dành
cho các người được Thiên Chúa tuyển chọn; Đồng thời có hai nhân vật đại
diện Lề Luật và ngôn sứ thời Cựu Ước là ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra
đàm đạo với Người. Như vậy tất cả Cựu Ước đều hiện diện để làm chứng
và tôn vinh Đức Giê-su. Điều đáng lưu ý là giữa vinh quang ấy, hai vị này
đã đàm đạo về cái chết của Đức Giê-su, như một cuộc Vượt Qua Mới mà Người
sắp trải qua tại thủ đô Giê-ru-sa-lem. Ngoài ra còn có đám mây tượng
trưng cho sự hiện diện của Thiên Chúa, và tiếng phán của Chúa Cha từ
trong đám mây xác nhận Đức Giê-su là Mô-sê Mới của thời Cánh Chung,
như ông Mô-sê đã từng tuyên sấm (x. Đnl 18,15).
2) ĐI THEO CON ĐƯỜNG: “QUA ĐAU KHỔ VÀO
TRONG VINH QUANG”:
Đức Giê-su được biến hình sau khi
đã chấp nhận cuộc Thương Khó và đã chiến thắng Xa-tan cám dỗ qua lời
can của ông Phê-rô (x. Mt 16,22-23). Người cương quyết đi con đường “Qua đau
khổ vào trong vinh quang” theo thánh ý Chúa Cha.
Trong Mùa Chay này, để được thay hình
đổi dạng như Đức Giê-su, chúng ta cần kiên trì tập luyện, chấp nhận đường
thập giá nhỏ hẹp leo dốc.
Phải siêng năng cầu nguyện, lắng nghe
lời Chúa, và sẵn sàng từ bỏ ý riêng để vác thập giá mình hằng ngày
mà theo chân Chúa. Nhờ đó, chúng ta hy vọng sẽ được vào trong vinh quang
phục sinh với Người.
3) MÙA CHAY LÀ THỜI GIAN THUẬN TIỆN ĐỂ BIẾN
ĐỔI NÊN TỐT HƠN:
Muốn được “biến hình” nên “con yêu dấu
của Thiên Chúa”, trong Mùa Chay này chúng ta cần thực hành lời Chúa Cha dạy các
môn đệ là vâng nghe lời Đức Giê-su. Không chỉ nghe bằng tai, bằng mắt mà còn
nghe bằng lòng trí và bằng cuộc sống quy chiếu theo gương mẫu và lời Chúa dạy cụ
thể như sau:
- Năng tham dự thánh lễ để được gặp Chúa
Giê-su trong phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể. Năng đọc và suy niệm Lời
Chúa trong giờ kinh tối hằng ngày, tham dự các buổi “học sống Lời Chúa” theo
Nhóm nhỏ hằng tuần…
- Trong ngày hãy năng cầu nguyện như trẻ
Sa-mu-en trong đền thờ khi xua: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe'' (I Sm 3,9), hoặc
như Sau-lô sau khi bị ngã ngựa ở thành Đa-mát: “Lạy Chúa, con phải làm
gì?” (x. Cv 22,10).
- Mỗi khi gặp hoàn cảnh thực tế không
biết phải ứng xứ thế nào cho phù hợp với thánh ý Thiên Chúa, chúng ta hãy thưa
với Chúa Giê-su: “Lạy Chúa, nếu Chúa ở trong hoàn cảnh của con bây giờ thì
Chúa sẽ làm gì?”. Rồi lắng nghe Lời Chúa phán trong lòng trí và quyết tâm
thực hành lời Chúa dạy.
- Ngoài ra còn phải sống Lời Chúa cụ thể
bằng việc: thăm viếng bệnh nhân nghèo tại các bệnh viện, nhà nuôi người già,
nhà tình thương… để chia sẻ cơm bánh cụ thể; Đến với anh em lương dân muốn theo
đạo để truyền giảng Tin Mừng cho họ…
4.
THẢO LUẬN:
Mùa
Chay là mùa biến đổi: lọai bỏ tội lỗi xấu xa để nên tốt lành hơn.
Vậy trong Mùa Chay này chúng ta cần biến đổi điều gì trong lối sống
đạo, để trở nên Con rất yêu dấu của Chúa Cha như Chúa Giê-su?
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúa muốn chúng
con thực thi giới răn quan trọng nhất là sống tình yêu thương tha nhân.
Tuy nhiên nói thì dễ, nhưng thực hành lại không dễ chút nào. Thực vậy:
Làm sao chúng con có thể yêu thương được một người hàng xóm lắm điều
xấu tính; Một ông chồng khó ưa hay bẳn gắt nạt nộ vợ con; Một người mua
hàng tham lam gian dối; Một bà hàng xóm ưa tò mò tọc mạch, hay nói xấu
thêm bớt để hạ uy tín của chúng con… ? Xin giúp chúng con biết nhẫn nhịn
chịu đựng, cầu nguyện điều lành cho họ, làm điều tốt để đáp lai
điều xấu. Ước gì chúng con luôn nói những lời an ủi động viên những
người gặp đau khổ rủi ro. Ước gì chúng con biết quảng đại chia sẻ
tiền bạc vật chất cho những bệnh nhân nghèo đói mắc chứng bệnh nan y.
Ước gì chúng con biết mở rộng vòng tay thân ái đón nhận tha nhân và
nhìn họ là anh chị em, là con của một Cha Chung trên trời là Thiên
Chúa.
X) HIỆP CÙNG
MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM