Hỏi: xin cha giải thích rõ thế
nào là Tà giáo, Bội giáo và Ly giáo trong Giáo Hội
Trả lời:
Lịch sử Giáo Hội trên 2000
năm qua đã trải qua nhiều khó khăn và thách đố đến từ bên trong cũng như từ
bên ngoài. Con Thuyền Phê rô đã nhiều phen bị chao đảo vì sống gió tứ bề nổi
lên uy hiếp. Nhưng ơn Chúa vẫn đủ để giúp đứng vững ,và
quyền lực của tử
thần sẽ không thắng nổi ” như Chúa Giêsu đã hứa khi Người thiếp lập
Giáo Hội trên nền tảng Tông Đồ và trao quyền lãnh đạo cho Phêrô. ( Mt 16:
18) là Giáo Hoàng tiên khởi của Giáo Hội. với sứ mệnh “chăn
dắt các
chiên của Thầy” ( Ga 21:17)
Những khó khăn lớn từ bên
ngoài đưa tới là những cuộc bách đạo ngay từ thế kỷ đầu của Giáo Hội sơ khai
cho đến ngày nay, khiến cho hầu hết các Tông Đồ và rất nhiều giáo hữu đã được
phúc tử đạo, vì đã kiên cường bảo vệ và sống đức tin Kitô Giáo trước mọi thế
lực thù nghịch muốn tiêu diệt Đạo Thánh của Chúa Kitô.
Cụ thể, trên quê hương Việt
Nam, hàng trăm ngàn giáo dân và giáo sĩ đã bỏ mình vì đức tin Kitô Giáo trong
thời các vua Nhà Nguyễn ( Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức) nhất là trong thời Tây
Sơn và phong trào Văn Thân vào thế kỷ 19 là thời điểm bách Đạo Công Giáo dữ
dội nhất ở VN. Nhưng nhờ máu các anh hùng tử đạo đổ ra mà hạt giống đức tin
đã đâm bông, phát sinh hoa trái xum xuê ở khắp mọi nơi đặc biệt trên cánh đồng
truyền giáo VN, khiến cho Giáo Hội không những đứng vững mà còn tăng trưởng mạnh
mẽ về mọi mặt cho đến ngày nay.
Ngoài những khó khăn trên,
Giáo Hội –qua thời gian- còn phải đương đầu với những tà thuyết , như thuyết vô
ngộ,( Gnosticism) thuyết tương đối ( Relativism) , thuyết vô thần( Atheism),
thuyết cộng sản ( communism), chũ nghĩa vật chất ( materialism) chủ nghiã
chuộng khoái lạc ( hedonism) chủ nghĩa tục hóa( secularism) cùng với “văn hóa
của sự chết” ( culture of death)…tất cả đều thách đố và nguy hại cho niềm tin
Kitô Giao mà Giáo Hội có bổn phạm phải chống đỡ để hướng dẫn con cái mình giữ
vững đức tin trước mọi thách đô của thế giới tục hóa xưa và nay.
Và để giữ vững đức tin
KitôGiáo , Giáo Hội còn phải đương đầu với ba tà thuyết xuất phát từ bên trong ,
đó là Tà giáo ( heresy) bội giáo ( Apostasy) và Ly giáo ( Schism).
1-Tà giáo là tội gì
?
Tà giáo ( heresy) hay lạc
giáo tức rối đạo , là chối hay nghi ngờ một chân lý đức tin đã được mặc
khải mà Giáo Hội tin và giảng dạy cho con cái mình phải tin và tuân giữ
cho được rỗi linh hồn. Thí dụ tín điều về Thiên Chúa Ba Ngôi, Ngôi thứ Hai
xuông thế làm Người sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria nhờ quyền năng của Chúa Thánh
Thần. Tín điều Đức Mẹ trọn đời đồng trinh và lên trời cả hồn xác, Tin điều
các Thánh Thông Công, tin xác loài người ngày sau sống lại v.v..
Như vậy , nếu ai chối bỏ
hay hoài nghi một trong những điều phải tin nói trên thì mắc tội rối đạo hay
tà giáo, đặc biệt là những ai dạy điều gì trái với niềm tin Kitô Giáo.
Giáo luật của Giáo Hội cũng
nói rõ tà giáo hay lạc giáo là “ cố chấp phủ nhận hay nghi ngờ một
chân lý phải tin, sau khi được chịu phép Rửa tội …( x giáo luật số
751)
Trong thời Tân Ước, Thánh
Phao lô đã tố cáo những kẻ mượn danh Tông Đồ để giảng dạy những điều sai lạc về
Đức tin như sau:
“
Điều tôi làm, tôi sẽ tiếp tục làm, để những kẻ muốn có
cơ hội tự phu là những người ngang hàng với chúng tôi, không còn có cơ hội đó
nữa. Vì những
kẻ đó là tông đồ giả , là thợ gian xảo, đội lốt tông
đồ của Chúa Kitô.” ( 2 Cor 11: 12=13)
Thánh Phê rô cũng đã lưu
ý tín hữu về sự xuất hiện của những tiên tri giả, nhừng thầy dạy sai lầm,
khiến gây hoang mang cho giáo hữu thời sơ khai như sau:
“
Trong dân cũng đã xuất hiện những ngôn sứ giả; giữa anh
em cũng vậy, sẽ có những thầy dạy giả hiêu;
đó là những kẻ sẽ lén lút đưa vào nhừng tà
thuyết đẫn tới diệt vong…” ( 2 Pr 2)
Thánh Gioan cũng nói về
nguy cơ có những thầy dạy không thuộc hàng ngũ Tông Đồ. Đó là các kẻ phản Kitô
vì chúng sẽ dạy những điều sai lầm, sai lạc giáo lý của Chúa:
“Chúng
xuất thân từ hàng ngũ chúng ta. Nhưng không phải là người của chúng ta . Vì nếu
là người của chúng ta, chũng đã ở lại với chúng
ta.Nhưng như thế mới rõ:
Không phải ai ai cũng là người của chúng ta.
1 Ga 2: 19)
Sau đây là một vài điển
hình về những người đã dạy sai lạc giáo lý đức tin, trong mấy thế kỷ đầu
của Giáo Hội. Đó là Arius,Nestorius và Pelagius :
Arius
là một linh mục ở Alexandria, đã dạy sai lầm là Chúa Giê su không cũng bản thể
và uy quyền với Chúa Cha, khi xuống trần gian làm Con Người , sinh bởi Đức
Trinh Nữ Maria. Tà thuyết này đã bị Công Đồng Nicaea năm 325 lên án và bác bỏ
vì sai lạc hoàn toàn với giáo lý của Giáo Hội về Ba Ngôi Thiên Chúa cùng một bản
thể ( substance) và oai quyền ( dignity) như nhau.
Cùng chia sẻ sai lầm với
Arius là Nestorius,
một linh mục khác ở Antioch năm 428 A,D cũng phân biệt thần tính ( divine
nature ) và nhân tính ( human nature) của Chúa Kitô, và dạy rằng Mẹ Maria chỉ
là Mẹ về mặt nhân tính của Chúa Kitô mà thôi.!
Tà thuyết này đã bị Công
Đồng Ephesus lên án năm 431 vì đã dạy sai lầm về hai hai bản tính không hề
tách rời nhau của Chúa Kitô như Giáo Hội tin và dạy không sai lầm. Từ đó Công
Đông cũng tuyên bố Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa ( Theotokos= God bearer)
vì là Mẹ thật của Chúa Kitô, là Ngôi Hai cùng bản thể với Chúa Cha và Chúa
Thánh Thần trong Mầu Nhiệm Ba Ngôi Một Thiên Chúa. (Holy Trinity= Three
Persons =One God))Từ đó, Giáo Hội cũng dạy phải kính Lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa
trong ngày đầu năm dương lịch mỗi năm.
Cùng bị lên án với Nestorius
là Pelarius , một luân lý gia nghiêm khắc đã phủ nhận tội Nguyên tổ
original sin) với lập luận sai lầm là linh hồn con người do Chúa tạo dựng nên
không thể vướng mắc tội được. Do đó, chỉ những người lớn( adults) mới cần rửa
tội, còn trẻ con thì không cần, vì chúng chưa biết phạm tội.
2- Bội giáo hay chối
Đạo ( Apostasy)
Đây là tội rất nghiêm
trọng mà một người đã được rửa tội, đã tuyên xưng đức tin nhưng sau đó đã chối
bỏ hoàn toàn đức tin về Thiên Chúa và về quyền bính của Giáo Hội. Tác giả Thư
Do Thái đã nói như sau về tội này:
“
Quả thật, những kẻ đã một lần được chiếu sáng, đã được
nếm thử ân huệ bởi trời , đã được thông chia Thánh Thần, đã được thưởng thức Lời
tốt đẹp của Thiên Chúa…những kẻ ấy mà sa ngã, thì không thể được đổi mới một lần
nữa để sám hối ăn năn vì họ đã tự đóng đanh Con Thiên Chúa vào thập giá một lần
nữa và đã công khai sỉ nhục Người…” ( Dt 6: 4-8)
Trong thời Cựu Ước, Dân Do
Thái mỗi lần bất trung với Thiên Chúa , họ đã phạm tội này như ngôn sứ Giê rê
mia đã nói rõ như sau:
“
Sự gian ác của ngươi phải sửa trị ngươi
Hành vi
phản bội của ngươi sẽ trừng phạt người
Ngươi phải biết,
ngươi phải thấy rằng
Lìa
bỏ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi
Không còn kính
sợ Người, thì thật là xấu xa và cay đắng”
( Gr 2: 19)
Tác giả Sách Giô-suê (
Joshua) cũng nói như sau về tội bội giáo:
“
ĐỨC CHÚA, Thần các thần, chinh Người biết và It-ra-en
cũng phải biết: nếu đó là một cuộc nổi loạn hay là một tội bất trung
đối với ĐỨC CHÚA, thì xin Người đừng cứu chúng tôi hôm nay,” ( Joshua
22: 22)
Thánh Phaolô sau này cũng
cảnh giác các tín hữu về nguy cơ chối Đạo như sau:
“
Trước đó phải có hiện tượng chối Đạo, và người ta
sẽ phải thấy xuất hiện người gian ác, đứa hư hỏng.” ( Tx 2: 3)
Giáo luật của Giáo Hội cũng
nói rõ “ bội giáo là chối bỏ toàn bộ đức tin Kitô giáo.” (
Giáo luật số 751)
Như thế, sau khi được rửa
tội để gia nhập Giáo Hội, ai công khải chối Đạo, bỏ Đạo, tức chối bỏ mọi niềm
tin Kitô Giáo thì mắc tội bội giáo nói trên. ( x giáo luật số 751)
3- LY GIÁO (
Schism)
Theo
ngữ căn ( etymology) Hy lạp thì từ “Schism”
có nghĩa xé rách ra. Áp dụng vào đời sống của Giáo Hội, thì từ Schism=Ly giáo
là hành vi cố ý rút ra khỏi mọi hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo,
đặt dưới quyền chăn dắt của Đức Thánh Cha , là Đại Diện duy nhất thay mặt (
Vicar) Chúa Kitô trong Sứ mệnh lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ với sự
hiệp thông và vâng phục trọn vẹn của Giám Mục Đoàn ( College of Bishops).
Lich sử Giáo Hội nghi nhận
có hai cuộc ly giáo nghiêm trọng đã xẩy ra trong nội bộ Giáo Hội Công Giáo
Phương Tây (Rome) ( Western Schism) và giữa Giáo Hội Phương Tây với một số
Giáo Hội Chính Thống Đông phương ( Eastern Orthodox Churches) được tóm lược như
sau:
A. Đại Ly giáo
Tây Phương (
Great Western Schism)
Cuộc ly giáo này kéo dài từ
năm 1378 cho đến năm 1417.
Nguyên nhân chính là do sự
tranh chấp của một số phe phái trong Giáo Hội về ngôi Giáo Hoàng La Mã, sau
khi Tòa Thánh, dưới triều Đức Giáo Hoàng Gregory XI rời đô trở lại Roma từ
Avignon ( Pháp) năm 1377.
Thời gian này có ba Giáo
Hoàng cũng tranh ngôi Giáo Hoàng La mã. Đó là
UrbanVI ở Rome, Clement VII
( Pháp) quay trở lại Avignon và Alexander V do Công Đồng Pisa bầu lên năm
1409 nhưng một năm sau (1410) thì được thay thế với Gioan XXIII .Nhưng vị
này(GioanXXIII),sau đó, lại bị coi là ngụy Giáo Hoàng ( antipope) nên sau này
, năm 1958 Đức Hông Y Roncali được bầu lên kế vị Đức Thánh Cha Piô XII qua đời
, ngài đã lấy lai danh hiệu Gioan XXIII cho Giáo Hội.
Trở lại phần trên, Giáo Hội
một lúc đã có ba Giáo Hoàng : Urban VI ở Rome, Clement VII ở Avignon và Gioan
XXIII ( ngụy giáo hoàng).
Sau nhiều cố gắng điều đình
giữa các phe tranh trấp, cuối cùng Công Đồng Constance ( 1414-18) đã bầu được
Giáo Hoàng mới cho Giáo Hội . Đó là Hồng Y Oddo Colona, một giáo dân chưa có
chức linh mục và giám mục. Nên sau khi được bầu, ngài đã được chịu chức linh
mục và giám mục trước khi đăng quang để trở thành Giáo Hoàng Martin V ngày 21
tháng 11 năm 1417. Công Đồng cũng chấp nhận sự từ chức của hai giáo hoàng, một
ở Avignon , một ở Rome và truất phế ngụy giáo hoàng Gioan XXIII, chấm dứt
cuộc ly giáo Tây Phương kéo dài từ năm 1378 đến 1417 mà nguyên nhân chì vì có
sự tranh chấp giữa các phe phái trong nội bộ Giáo Hội Tây Phương ( Rome) về ngôi
vị Giáo Hoàng Rôma..
B- Ly giáo Đông Tây (
Eastern Schism)
Đây là vết thương
to lớn và kéo dài lâu
nhất từ năm 1054 cho đến nay mà vẫn chưa có cơ may hàn gắn.
Đó
là cuộc ly giáo giữa Giáo
Hội Công Giáo La Mã phương tây và một số các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương do
Thượng Phụ Giáo Chủ ở Contantinople ( Hy Lạp) cầm đầu.Nguyên nhân thì có nhiều ,
nhưng điểm tín lý quan trọng bất hòa là từ ngữ Filioque ( and from the
Son) trong Kinh Tin Kinh Nicene của Giáo Hội Công Giáo tuyên xưng Chúa Thánh
Thần bới Chúa Cha và Chúa Con mà ra.Về mặt quyền bình, các Giáo Hội Đông Phương
hiệp thông với Tòa Thượng Phụ Constantinople Hy Lạp không công nhận vai
trò Đai Diên Chúa Kitô của Đức Giáo Hoàng La Mã trong việc lãnh đạo Giáo Hội,
và đây là điểm khó hòa giải nhất giữa Contantinople xưa và Istanbul nay ( Thổ
Nhĩ Kỳ) với Roma cho đến nay. Hai bên đã ra vạ tuyệt thông ( anathemas) cho
nhau từ năm 1054. Nhưng vạ này đã được đôi bên tháo gỡ sau cuộc gặp gỡ lịch sử
giữa Thượng Phụ Giáo Chủ Chính thống Hy lạp là Athenagoras I và Đức Thánh
Cha Phaolô VI năm 1966. Hai Giáo Hội Công Giáo La Mã và Chính Thông Đông Phương
đều có chung nguồn gốc Tông Đồ ( Apostolic succession) vì cũng là kết quả
truyền giáo của hai Thánh Phêrô ( ở Tây phương) và Anrê em ngài ở Đông Phương.
Vì thể cả hai Giáo hội đều có những bí tích hữu hiệu như nhau.
Ngoài các Giáo Hội Chính
Thống Đông Phương, còn có các giáo phái Tin Lành ( Protestantism) và Anh giáo (
Anglican Communion) là những nhóm Kitô Giáo đã tự ý tách khỏi Giáo Hội Công
Giáo La Mã từ thế kỷ thứ 16 đến nay và cũng chưa trở lại hiệp thông với Giáo Hội
Công Giáo vì những bất đồng về quyền bính và một vài điểm tín lý, và phụng vụ.
Như vậy, ai đã gia nhập Giáo
Hội qua Phép Rửa mà bỏ Đạo để quay sang một tôn giáo khác thì mắc tội ly giáo
trên đây, kể cả những nhóm có ý tách ra khỏi hiệp thông với Giáo Hôi vì lý do
riêng của họ.
Tuy nhiên, để tỏ thiện chí
muốn hiệp nhất Kitô Giáo, Giáo Hội Công Giáo không lên án những anh em ly khai
và luôn hướng về họ với ước mong đạt được sự hiệp nhất( unity) và hiệp thông
trọn vẹn ( full communion) với các anh em cùng tin Chúa Kitô và giáo lý của
Chúa nhưng đang ở bên ngoài Giáo Hội.
Dầu vậy , các gương xấu như
tà giáo, bội giáo và ly giáo vẫn bị coi là những tội mắc vạ tuyệt thông
tiền kết ( đương nhiên mắc vạ) dành riêng cho Đức Thánh Cha quyền tháo gỡ.( x.
giáo luật số 1364& 1)
Ước mong những giải đáp trên
thỏa mãn câu hỏi đặt ra.
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn
Huấn.