Thái Công Tụng
1. Dẫn nhập
Chữ Tâm tiềm tàng trong
mọi áng văn Việt như trong truyện Kiều, trong Quan Âm Thị Kính, trong ca dao tục
ngữ …Chữ Tâm cũng có mặt trong các kinh Phật giáo .
Tâm ở trước các chữ
như tâm thần, tâm lí, tâm cảm, tâm cảnh, tâm thức, tâm tình, tâm trí v.v.
Tâm ở sau các chữ
như thiện tâm, vọng tâm, nội tâm, chân tâm, thành tâm, ác tâm, thâm tâm, nhất
tâm, tà tâm v.v.
Như vậy chứng tỏ nội hàm
của chữ Tâm vừa đa dạng, vừa phong phú . Tâm là cảm nghĩ, cảm xúc, cảm tưởng,
cảm nhận. Đó là ý nghĩ, ý tưởng. Trong kinh Pháp Cú, ngay bài 1, đã có câu:
Tâm vi pháp bổn
Tâm tôn, tâm sử
Tâm là gốc mọi pháp
đời
Tâm cao quí nhất, tâm
sai khiến làm
(bản dịch của Tr
ần Trọng San)
2. Chân tâm và vọng
tâm
Trong bài ca dao :
Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm, lộn
cổ xuống ao
Ông ơi, ông vớt tôi
nao
Tôi có lòng nào, ông
phải xáo măng
Có xáo thì xáo nước
trong
Đừng xáo nước đục
đau lòng cò con
Bài này mượn chuyện con
cò mà ngụ ý luân lý rất cao. Con cò sa xuống nước, người ta bắt được sắp đem làm
thịt, mà nó vẫn xin nấu bằng nước trong, để cho chết cũng được trong sạch Nước
trong là nước không vẩn đục, không ô nhiễm. Nước đục là nước ô nhiễm, vẩn đục. Ô
nhiễm đây là ô nhiễm của tâm hồn. Nước trong là chân tâm, nước đục là
vọng tâm .. Tâm có thể là chân tâm là tâm thanh tịnh, không sinh
diệt, không dao động, thường vắng lặng . Tâm cũng có thể là vọng tâm là
tâm bị ngủ uẩn làm cho mê mờ với tham ái, dục lạc, vọng tưởng ; các loại hình
của vọng tâm là ác tâm, tâm đố kị, tâm ngạo mạn, tâm hẹp hòi. Bài ca dao muốn
nhắn gửi luôn giữ tấm lòng trong sáng trong ứng xử
3. Chữ Tâm trong
truyện Quan Âm Thị Kính
Truyện Quan Âm Thị Kính
là một truyện Nôm, như truyện Kiều, truyện Cung Oán, truyện Hoa Tiên, truyện
Phan Trần v.v. Câu chuyện như sau: Thị Kính lấy chồng học trò tên là
Thiện Sĩ. Một đêm chồng học quá khuya, ngủ thiếp đi, vợ ngồi khâu bên cạnh, thấy
một sợi râu mọc ngược, sẵn có dao cầm tay nên toan cắt đi. Chồng giật mình tỉnh
dậy, tưởng vợ có bụng hại mình, liền hô hoán lên. Cha mẹ chồng chạy tới, một mực
gán cho Thị Kính tội mưu sát chồng. Nàng bị đuổi về nhà cha mẹ đẻ, vì quá buồn
tủi, Thị Kính bèn giả trai đến tu ở chùa được đặt pháp danh là Kính Tâm;
một hôm có lễ Chùa, trong khách thập phương có một cô rất đẹp, tính tình lẳng lơ
tên là Thị Mầu, đem lòng say đắm chú tiểu đẹp trai Kính Tâm; nhưng Kinh Tâm vẫn
thờ ơ, Thị Mầu quyết tâm trả thù bằng cách tư thông với ngưòi tớ trai
trong nhà, đẻ ra đứa con đem lại vào chùa và phao vu là con mình với chú tiểu
Kính Tâm. Chú tiểu này cam chịu lời dèm pha và vẫn nuôi đứa bé . Ít năm sau,
Kính Tâm bị bệnh rồi mất . Xem thư tuyệt mệnh của tiểu Kính Tâm, người nhà mới
biết tội mưu giết chồng là oan ức. Khi liệm thi hài, sư, vãi trong chùa mới rõ
Kính Tâm là phụ nữ. Vậy là cả hai nỗi oan đều được tháo gỡ.
Truyện Quan Âm Thị
Kính cốt tả đức tính nhẫn nhục và lòng từ bi của bà Thị Kính (nhân
vật chính), vì đó mà sau này bà trở thành Phật Quan Âm.
Do vậy, luân lý của
truyện có thể tóm lại ở câu:
Nhân sinh thành Phật
dễ đâu,
Tu thân, cứu khổ, rồi
sau mới thành.
Để đắc đạo, người ta
không những phải chỉ chịu khổ hạnh, mà còn phải chịu những oan ức bất công
nữa…Như Thị Kính, oan uổng đến vậy mà chịu nhẫn, không hề oán trách trời
và số phận, chỉ lấy từ tâm mà chiến thắng cảnh ngộ…
Chữ rằng nhẫn nhục
nhiệm hòa,
Nhẫn điều khó nhẫn mới
là chân tu.
4. Chữ Tâm trong
truyện thơ nôm Nhị Độ Mai (hoa mai nở hai lần)
Truyện Nhị Độ Mai cũng là
một truyện Nôm khá phổ thông như truyện Kiều và truyện Lục Vân Tiên . Đây là một
truyện thơ phỏng theo một chuyện bên Tàu, đời nhà Đường với nhiều nhân vật thuộc
nhiều tầng lớp: vua chúa, văn thần, võ tướng, kẻ sĩ tài danh, công tử ỷ quyền
cậy thế, sư sãi, nhà chài, đặc biệt có hình tượng nhà Nho nghĩa khí và người phụ
nữ tài sắc, đức hạnh.
Nhị độ mai là một cuốn
luân lý tiểu thuyết chủ ý khuyên người ta nên theo luân thường, nên giữ trọn
những điều trung, hiếu, tiết, nghĩa. Trong truyện, bày ra một bên là những vai
trung chính, dù gặp hoạn nạn cũng không đổi lòng, sau được vẻ vang sung sướng;
một bên là nhũng vai gian ác, tuy được đắc chí một thời, sau cũng phải bị tội
vạ, khổ sở, để tỏ cho người đời nhận biết cái lẽ báo ứng của trời. Đặc biệt có
nhân vật trong truyện đ ã toan quyên sinh nhung được nhà chùa cứu vớt:
Sư rằng: Cửa bụt thênh
thênh
Tòng quyền hãy tạm gửi
mình ở đây
Nhà chùa công việc
cũng đầy
Dẫu rằng lau án, tưới
cây cũng là
Vả trong ra dáng con
nhà,
Sẵn nghiên bút viết
một vài tờ xem
Luật nhân quả cũng được
đề cập đến trong đoạn thơ sau:
Hoá nhi thăm thẳm
nghìn trùng
Nhắc cân phúc tội, rút
vòng vần xây
Ngàn xưa mấy kẻ gian
ngay
Xem cơ báo ứng biết
tay trời già
Tuần hoàn lẽ ấy chẳng
xa
Chớ đem nông nỗi mà
ngờ cao xanh
Trời nào phụ kẻ trung
trinh
Dù vương nạn ấy, ắt
đành phúc kia
Danh thơm muôn kiếp
còn ghi
Để gương trong sách,
tạc bia dưới đời
5. Chữ Tâm kia mới
bằng ba chữ Tài
Chữ Tâm
ở đây bao gồm mọi đức tính như lịch sự, hoà đồng, cởi mở, thân thiện, nhẫn nhịn,
tóm lại những điều mà ngày nay, các nhà tâm lý học gọi khi thì kỷ năng mềm (soft
skills), khi thì chỉ số cảm xúc (emotional quotient) . Thái độ ứng xử quan trọng
đến nỗi ngày nay, khi phỏng vấn xin việc, người ta it hỏi về bằng cấp,
tốt nghiệp trường nào, ở đâu (vì họ chỉ cần điện thoại cho trường để hỏi) v.v.;
họ cũng tuyệt đối không hỏi mình ở nưóc nào đến đâỵ Họ chỉ phỏng vấn chính là để
biết phong cách, thái độ, cách trình bày, cách ứng xử, tính tình ; thực vậy, một
thái độ tích cực trong công việc không những mang lại nhiều ích lợi lớn lao cho
đời sống của mỗi cá nhân, mà còn có sức lan rộng, ảnh hưởng đến cuộc sống của
nhiều người chung quanh. Khi làm việc, cần cái Tâm như phải tập trung vào công
việc, không vọng tưởng, không vọng thức, không vọng niệm,
không vọng ngôn với các bạn đồng nghiệp, nghĩa là các thành tố của các
giá trị căn bản trong cuộc sống con người giữa nhân quần xã hội.
Cụ Tiên Điền muốn nhắc
nhủ con cháu cần phải chú trọng trau dồi cái phần đạo đức, cái tấm lòng ngay
thẳng để mà sống cho có nhân, có nghĩa – đó là điều quan trọng cần thiết hơn
nhiều so với chuyện bồi dưỡng tài năng trí tuệ ở học đường.
Thiện căn ở tại lòng
ta,
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài.
Với tâm hẹp hòi, tâm ngạo
mạn, tâm đố kỵ, tâm tham lam nghĩa là ma đưa lối, qũy đưa đường thì sự
giao tiếp giữa người với người sẽ đem đến những kết quả tiêu cực.
Ngày nay, mọi công việc
đều phải có sự hợp tác của nhiều ngành học khác nhau. Thực hiện một dự án, một
công trình đòi hỏi sự điều hợp, sự phối trí nhịp nhàng giữa mọi chuyên viên
trong các lĩnh vực khác nhau, do đó con người phải tập hoà đồng với người khác,
có thái độ hoà nhã, tích cực với người chung quanh, không hung hãn trong ứng xử
giữa người với người trong xã hội .Như vậy, sự thông minh hay cảm xúc không
quyết định sự thành bại trong cuộc đời bạn, mà chính là thái độ sống. Có
thái độ tích cực, vạn sự sẽ thành.
Không nóng giận, không
phát ngôn bừa bãi cũng chính lại là những giáo lí của nhà Phật. Giáo lí nhà Phật
há chẳng phải khuyên ta giữ gìn ba nghiệp thanh tịnh. Trong Kinh Pháp Cú,
Đức Phật dạy rằng tam độc “tham, sân, si” là những nguyên nhân gây ra bất
hạnh và phiền não, ưu tư cho con người. Tham, sân, si có thể được tìm thấy một
cách dễ dàng nơi hành động, ngôn ngữ, và ý nghĩ của chính mình cũng như của kẻ
khác. Bất cứ ở đâu hay lúc nào, nếu tham sân si có mặt và ngự trị thì cuộc sống
riêng hay chung đều trở nên xấu xa đau khổ
Nghiệp do chính mình tạo
ra và nghiệp trở lại chi phối mình. Cũng như Nguyễn Du nói rất đúng trong Kiều:
Đã mang lấy nghiệp vào
thân,
Cũng đừng trách lẫn
trời gần trời xa
Tuy nghiệp đã mang vào
thân rồi, nhưng vẫn gỡ ra được, nếu chúng ta biết ăn năn sửa chữa lỗi lầm, từ
nay tránh mọi điều ác, làm mọi điều lành, giữ tâm ý luôn trong sạch, hướng
thiện., chúng ta hãy mang trên thân mình toàn là nghiệp lành, hãy dệt đời
chúng ta toàn bằng nghiệp lành, nghiệp thiện trong mỗi ý nghĩ, lời nói và việc
làm hằng ngày. Và nhất định, hạnh phúc sẽ đến với chúng tả trong cả đời này và
đời sau.
Chính chúng ta không phải
một thần linh nào hết quyết định đời sống chúng ta, và chúng ta quyết định nó
bằng hoạt động hàng ngày, hàng giờ, phút trong cuộc sống. Nếu tâm chúng ta hướng
thiện thì chúng ta tạo nghiệp thiện, hưởng quả báo thiện trong đời này và đời
sau. Quy luật nghiệp báo là quy luật nhân quả, giản dị, không có gì khó hiểu,
không cần phải mượn tới sức mạnh của thần linh hay sức mạnh mù quáng của số phận
để giải thích.
Ý làm chủ, ý tạo
Nếu với ý nhiễm ô
Nói năng hay hành động
Khổ não bước theo sau
Như chiếc xe theo chân
con vật kéo
Nếu với ý thanh tịnh
Nói năng hay hành động
An lạc bước theo sau
Như bóng không rời
hình
Thuyết nghiệp của đạo
Phật không những là khoa học và công bằng, nó còn tôn vinh trách nhiệm và giá
trị con ngươi. Nó thúc đẩy con người luôn hoàn thiện mình, sống đạo đức, có
lý trí và theo lẽ phải. Nó nâng cao giá trị con người chứ không hạ thấp giá trị
con người. Nó khích lệ con người hành động và tiến bộ. Nó không dạy con người
sống tiêu cực và yếm thế. Thuyết nghiệp của đạo Phật, nếu được lý giải đúng đắn
và mọi người hiểu thấu và thực hành sẽ đem lại bao nhiêu điều tốt đẹp cho xã hội
và đất nước chúng ta trong thiên niên kỷ mới sắp đến này. Quá khứ đã qua rồi,
tương lai lại chưa đến, mọi người chúng ta hãy tỉnh giác và có ý thức sống trong
hiện tại từng giờ, từng phút nghĩ lành, nói lành, làm lành. Đó chính là
nghiệp, là thuyết nghiệp không phải trên bình diện lý thuyết mà là trong cuộc
sống, trong thực hành.
Triết gia Mỹ William
James, chắc là có chịu ảnh hưởng của thuyết nghiệp của đạo Phật đã nói câu:
“Chúng ta đang dệt đời
bằng một sợi chỉ không tháo gỡ ra được” (Nous tissions notre vie d’un qui ne
se défera pas).
Biết cân bằng cảm xúc
nếu như mỗi người biết thông cảm, chia sẻ, biết dung hòa trong quan hệ thì không
có chuyện cự cãi dẫn đến xung đột, bạo lực. Do đó chúng ta nên biết cân bằng cảm
xúc trong mọi tình huống, mọi hoàn cảnh, lấy tình thương, trách nhiệm và lòng vị
tha để thay thế cho sự tức giận, bốc đồng thì nhất định mọi việc sẽ được giải
quyết.
6. Cội nguồn cũng ở
lòng người mà ra
Trong truyện Kiều, cụ
Nguyễn Du cho sư cô Tam Hợp thốt ra như trên, ý noí mọi việc rốt ráo cũng do
lòng người nghĩa là từ chữ tâm. Ngày nay, khoa học não bộ cho ta thấy tâm
thức với buồn, vui, giận, hờn, ghét, ghen .. là từ hàng ngàn, hàng tỷ neuron
trên não đề Vài ví dụ: mắt là nhãn căn, mắt nhìn sự vật là nhãn trần,
nhưng phải nhờ nhãn thức nằm đâu đó trên hàng tỷ neurone trên não bộ ta
mới biết . Tương tự như vậy, các ngủ quan khác như tai, lưỡi cũng thế.
Nói khác đi, tâm thức bao
gồm nhàn thức, nhĩ thức, than thức ..tác động đến suy nghĩ, do đó Nguyễn Du còn
viết them :
Người buồn cảnh có vui
đâu bao giờ
7. Stress hay là 4
thành tố của Stress (SUNT)
Những gì gây stress. Để ý
các chữ sau:
Sense of control:
ta có cảm tưởng như mình không kiểm soát được tình hình. Ví dụ: xe cộ ồn ào,
cướp bóc, mất ngủ thường xuyên, bụi khói mù đường, lũ lụt, cháy nhà
Unpredictability:
chuyện bất thường xảy ra không tiên đoán, không dự trù được. Ví dụ: tai nạn, mất
việc, người thân chết v.v.
Novelty:
cái mới quá chưa bao giờ gặp nên phải quá sức ra làm, đâm ra mệt mỏi. Áp lực
công sở, tư sở với các mục tiêu khó đạt được
Threat to the
ego: mất tự tin
thường hay dẫn đến tự ti và cảm giác bất hạnh càng lúc càng ăn sâu vào tâm trí
khiến căng thẳng lo âu càng nhiều. Ta chỉ muốn giữ lại mối tương giao nào mà cái
huyễn ngã của chúng ta được ái mộ, chiều chuộng, vuốt ve, những hành động của ta
được tung hô vạn tuế. Bằng ngược lại, ta hờn, ta dỗi, ta hận đời đen bạc, than
rằng sao người ta không hiểu mình, rằng sao mà mình cô đơn quá, v.v ..
Căng thẳng ảnh hưởng đến
thân thể như cao huyết áp, hơi thở gấp gáp, mất ngủ, và cũng ảnh hưởng đến đời
sống tinh thần như suy giảm trí nhớ, mất tự tin. Ngày nay căng thẳng trong đời
sống là nguyên nhân chính của các bệnh; nhiều làng Thi ền với người đến tu tập
trong chánh niệm với đi thiền, ngồi thiền chính là để giữ cho thân tâm an lạc.
Thiền với quán nghĩa là tập trung trên bốn niệm xứ: than, thọ, tâm, pháp;
thiền với chỉ nghĩa là ngừng các vọng tâm, các loạn tưởng, giúp con người
tỉnh thức trong hiện tại, chánh niệm nhờ điều phục tâm qua hơi thở
Tác giả Mike George
truyền cảm hứng cho hàng chục ngàn người ở hơn ba mươi quốc gia về Nghệ thuật
Thiền định giúp nhiều người phát triển tinh thần. Trong sách “Cuộc hành trình
từ cái đầu đến trái tim” ông viết:
“Sống yêu thương nghĩa là chính mình
Không nên nhầm lẫn tình dục với Tình yêu
Nếu bạn biết bạn là Tình yêu
Bạn sẽ không bao giờ muốn bất cứ điều gì nữa
Bạn sẽ tự nhiên tách ra, song vẫn có sự liên hệ mật thiết với mọi vật, mọi
người.
Sẽ không còn phụ thuộc vào ai hay bất cứ điều gì
Không ai có thể làm tổn thương bạn và bạn không bao giờ có ý định gây hại người
khác.
Và bạn sẽ nắm được bí mật để sống hạnh phúc.”
“Tình yêu là năng
lượng Ánh Sáng một trái tim phi thể chất”.
“Sự bình yên không có
nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào, không khó khăn, không cực nhọc. Bình yên
có nghĩa ngay chính khi ta đang trong phong ba bão táp ta vẫn cảm thấy sự yên
tĩnh trong trái tim. Đó mới chính là ý nghĩa thật sự của sự bình yên”.
8. Kết luận
Giữa dòng đời biến động
và cuộc sống đầy sức ép, tất cả những tội lỗi gây ra, đều do tâm chúng ta chủ
động, thì phải thành tâm mà sám hối, tự trong thâm tâm. Từ đó, chúng ta phát
nguyện không tái phạm, cho nên mỗi khi tâm tham, tâm sân, tâm si khởi lên, chúng
ta liền biết ngay, dừng lại, không làm theo sự điều khiển, sai khiến của tham
sân si, thì tội lỗi sẽ không còn tái phạm nữa. Khi tội lỗi không còn, tâm sanh
diệt cũng lặng mất, con người sống trong trạng thái tịch tịnh, bình yên của tâm
trí.
Đó mới thực là sự sám hối
chân chánh.
Hiểu quy luật vạn vật và thực hành Phật pháp giúp con người buông xả và hóa
giải những năng lượng xấu như giận dữ, đố kỵ, ích kỷ để đạt cảm giác an lạc
Thiết nghĩ, chỉ có tình
yêu thương gồm có lòng bao dung, sự quảng đại, tính vị tha, tình lân tuất thương
yêu kẻ nghèo khó, hoạn nạn là trên hết mọi sự trên đời, vì nó giúp ta quên được
cái “NGÔ vị kỷ thì tự khắc mình sẽ cảm thấy hạnh phúc trong đời.
Giữ cuộc sống an bình,
trong gia đình trên thuận, dưới hòa. Ngoài xã hội thì không bon chen, lừa lọc.
Không lợi dụng người khác. Sống đúng trách nhiệm của mình. Đó có thể là thành
quả bao nhiêu kiếp mà mỗi người đã tự rèn luyện thân, tâm, thì tự nhiên cũng đã
đi trên Phật Đạo, chẳng cần phải màu mè hình tướng thêm vào đó, vì hình tướng
chẳng liên quan hay giúp ích gì trong việc Tu sửa cái Tâm vậy. Hạnh phúc là gì?
Khi anh đến hai bàn
tay không
Khi tôi đến đôi chân
trụi trần
Ta chẳng có chút gì
đeo mang
Sao bây giờ nặng gánh
trần gian
Xin hãy đến cho nhau
nụ cười
Xin hãy đến cho nhau
tình người
Xin hãy nói yêu thương
một lời
Xin hãy tốt với nhau
cho đời nở hoa
Tôi chỉ muốn cuộc đời
nở hoa
Người hạnh phúc thật sự
không bao giờ phủ nhận thực tế, họ luôn đối mặt với cuộc sống, mở lòng mình để
cảm nhận từng hơi thở của cuộc đời. Họ cảm nhận hạnh phúc bằng nỗi hân hoan. Họ
nhìn đời bằng đôi mắt lạc quan, chấp nhận hiện tại, khám phá và hướng tới tương
lai với những thái độ tích cực.