1-Sổ mũi. Hắt hơi.
Rát cổ = Xin đừng vội dùng kháng sinh.
Thời tiết bắt đầu chuyển động. Ðâu
đây rạng rỡ nắng hanh vàng với:
“Heo may chớm đã lên mùa gió
Ngăn ngắt chiêm bao lạnh chiếu nằm”-Vũ Hoàng
Chương.
Vâng : “lạnh chiếu nằm”, vì “Ðã nghe rét
mướt luồn trong gió” Xuân Diệu.
Cho nên nhiều người đã bắt đầu than phiền khó
chịu với sổ mũi, hắt hơi, cảm lạnh..Và cũng không thiếu gì người vội vàng lục
lọi tìm kiếm vài chục viên kháng sinh để tiêu trừ bệnh tật. Vì sợ rằng để lâu
thì bệnh nặng thêm.
Ðây là hành động đáng khen và cũng cần xét lại.
Khen vì đã biết tự lo tự liệu nhưng có điều hơi “nhanh nhẩu đoảng”. Giới chức y
tế khắp nơi vẫn luôn luôn nhắc nhở rằng thủ phạm những cảm lạnh vào cuối Thu đầu
Ðông của mỗi năm không phải do vi khuẩn gây ra. Ða số hung thần là những cô
những chú siêu vi sinh vật virus bất trị, ngang ngược. Kháng sinh đều bó tay
trước sự hoành hành của các tiểu yêu này. Cho nên dùng kháng sinh chẳng những vô
hiệu mà còn gây ra nhiều rủi ro xấu.
Sự khác biệt giữa
Virus và Vi khuẩn.
Vi khuẩn (bacteria) là những vi
sinh vật đơn bào, sinh sản vô tính bằng cách phân chia nhân đôi tế bào. Vi khuẩn
có khắp mọi nơi: trong nước, đất, không khí . Nhiều loại sống ký sinh ở người,
súc vật và cây cối. Trong cơ thể, vi khuẩn nhởn nhơ đầy rẫy ngoại trừ máu và
nước tủy sống. Không phải tất cả vi khuẩn đều có hại, vì một số giúp cơ thể
trong nhiều lãnh vực khác nhau. Kháng sinh có thể khuất phục được hầu hết các
bệnh do vi khuẩn gây ra.
Còn virus là những “hạt” rất nhỏ, có khả năng
sinh sản nhưng chỉ tồn tại được ở trong tế bào sống. Ra không khí một thời gian
ngắn là chúng hai năm mươi tiêu tùng. Kích thước của virus rất nhỏ nên không
nhìn thấy qua kính hiển vi quang học. Nhỏ vậy mà chúng đã và đang gây ra những
bệnh quái đản giết hại có khi cả mấy chục triệu sinh linh, người và súc vật. Như
là cảm lạnh, cúm, đa số viêm cuống phổi và cuống họng; bệnh sởi, quai bị, thủy
đậu, herpes, đậu mùa, tê liệt trẻ em, bệnh dại, viêm gan. Ðặc biệt trong những
thập niên qua, các bệnh liệt kháng HIV-AIDS, Cúm Gia Cầm đang hầm hừ đe dọa nhân
loại và các quốc gia đang sát cánh với nhau dốc toàn lực phòng chống. Kháng sinh
không có hiệu lực với virus nhưng một số bệnh có thể kiểm soát được bằng chủng
ngừa vắc xin.
Vậy thì tôi phải làm gì khi sổ mũi, hắt hơi?
Sổ mũi là chuyện thường xẩy ra khi bị cảm lạnh,
đặc biệt ở trẻ em.
Khi vi sinh vật xâm nhập mũi, mũi phản ứng bằng
cách tiết ra chất lỏng trong để loại bỏ các tác nhân này khỏi lỗ mũi và xoang
mũi. Sau vài ngày, hệ thống miễn dịch của cơ thể bắt đầu hoạt động, phản công
lại các cô chú virus, nước mũi trở thành mầu trắng hoặc vàng. Rồi đến khi vi
sinh vật tăng sinh trong mũi, chúng sẽ làm nước mũi có mầu xanh xám. Ðó là những
diễn tiến bình thường. Và khi mũi bị chất tiết kích thích thì ta phải hắt hơi,
để gạt bỏ những chất này. Ðôi khi chất tiết xuống cuống họng, ta ngứa cổ; xuống
cuống phổi , ta ho sù sụ.
Khi thấy vậy, ta nên kiên nhẫn chờ đợi vài
ngày, đừng vội vàng dùng kháng sinh. Lý do là kháng sinh KHÔNG làm bớt ho, bớt
chẩy nước mũi hoặc đau nhức xương thịt, mà chúng tự hết sau ít hôm. Có nhiều
thuốc trị chẩy nước mũi hiệu nghiệm. Chẳng hạn nhiều người chỉ cần nhỏ mấy giọt
nước pha muối, hít thở vào máy bốc hơi lại giải quyết được vấn nạn mau chóng.
Kháng sinh chỉ nên dùng nếu thầy thuốc nói bị bội nhiễm vi khuẩn như viêm xoang
sinusitis, sưng phổi. .
Thế còn cảm lạnh, cúm có cần đến
kháng sinh không?
Như đã thưa ở trên, Cảm Lạnh và Cúm là do virus
gây ra.
Cảm Lạnh Common Cold là bệnh cấp tính do siêu
vi thuộc nhóm rhinovirus, tác hại trên mũi, xoang mặt, cuống họng, thanh quản,
đôi khi xuống tới cuống phổi. Bệnh này chưa có thuốc chủng ngừa.
Còn Cúm do virus Influenza A và B gây ra. Siêu
vi này thay đổi cấu trúc mỗi năm do đó sự trầm trọng của bệnh cũng thay đổi.
Nhưng Cúm có thể ngăn chặn lây lan được bằng chủng ngừa trước mùa cúm khoảng một
tháng. Ðọc xong bài này, xin mời quý thân hữu đi chích ngừa ngay cho kịp. Vì ở
các xứ lạnh, Cúm đến vào mùa Ðông, từ tháng 11 trở đi tới tháng hai tháng ba.
Còn ở xứ nóng thì cúm xẩy ra hầu như quanh năm.
Kháng sinh không tiêu diệt được virus. Bị cảm
lạnh, cúm mà dùng kháng sinh chẳng những vô ích tốn tiền, không chữa được bệnh,
không ngăn ngừa sự lan truyền bệnh sang người khác, không làm mình cảm thấy khỏe
hơn. Trái lại còn đưa tới nhiều ảnh hưởng xấu như nhờn thuốc, tốn tiền, phí phạm
dược phẩm.
Thường thường cảm lạnh , cúm tự lành sau khi
bệnh đã hoàn tất chu kỳ là hai ba tuần lễ. Ðiều trị bao gồm sự hỗ trợ như uống
nhiều chất lỏng (Nước lã tinh khiết, nước trái cây, nước súp) để tránh khô nước;
hít thở trong máy phun hơi hoặc nhỏ mấy giọt nước pha muối vào mũi nhiều lần
trong ngày; làm dịu đau cuống họng với ngậm vài viên nước đá cục, xúc miệng với
dung dịch diệt trùng.
Ho là phản ứng tự nhiên của cơ thể để đẩy nước
tiết ra khỏi phổi nên cũng chẳng cần quan tâm. Nhưng nếu ho nhiều đến đau ngực,
rát họng, mệt mỏi thì uống mấy thìa thuốc giảm ho. Chỉ khi nào có dấu hiệu bội
nhiễm vi khuẩn như sung phổi mới cần đến kháng sinh. Mà khi bác sĩ cho toa thì
uống đủ ngày, đúng liều lượng đã ghi trong toa thuốc, chứ đừng thấy bớt là
ngưng, để dành thuốc cho kỳ sau.
Riêng Cúm thì bác sĩ có thể cho mấy loại thuốc
như Tamiflu, Relenza, Amantadine, Rimantadine ...
Rửa tay thường xuyên, tránh tiếp xúc quá gần
với người bệnh là những phương thức rất hữu hiệu để ngăn ngừa sự lan truyền bệnh
gây ra do virus.
2-Sàng lọc ung thư
Người Việt tỵ nạn chính trị mình hội nhập với
Hiệp Chủng Quốc Mỹ mới có trên một phần tư thế kỷ mà đã được giới y khoa lưu ý
rất nhiều. Vì ta có nhiều điều để nghiên cứu, thăm dò.
Theo tài liệu của Trung Tâm Kiểm Soát Bệnh Tật
Hoa Kỳ (Centers for Disease Control) cũng như kết quả nhiều thăm dò Mỹ Việt thì
một trong những điều đáng để ý là “dường như quý vị đồng hương ta cũng hơi lơ là
với việc sàng lọc ngừa bệnh thì phải”.
Chẳng hạn Ung Thư Cổ Tử Cung.
Cổ tử cung là phần dưới của dạ con chứa nhiều
niêm dịch và thông với âm đạo.
Ung thư cổ tử cung đứng hàng thứ ba trong số
các u ác tính về sản khoa và thứ tám trong số các bệnh ung thư của người đẹp bản
xứ Hoa Kỳ. Bệnh đặc biệt có nhiều liên hệ nhân quả với hoạt động tình dục:
a) gia tăng khi thiếu nữ giao hoan quá sớm;
b) gia tăng khi giao hợp với nhiều đối tượng
khác nhau.
Vì một loại virus lây truyền do lang chạ làm
tình vung vít đã được coi như một trong nhiều nguyên nhân đưa tới ung thư này. Ở
giai đoạn phát triển mạnh và di căn xa, hy vọng sống sót của người bệnh là 0 tới
15%. Nghĩa là tử vong rất cao nếu điều trị quá trễ.
May mắn là trên 90% ung thư cổ tử cung có thể
phát hiện sớm ngay từ khi chưa có dấu hiệu bệnh bằng phương pháp xét nghiệm tế
bào rất giản dị gọi là Pap test. Pap viết tắt từ chữ Papanicolaou, tên của vị
bác sĩ người Mỹ gốc Hy Lạp George Nicolas Papanicolaou đã tìm ra phương pháp
thử tế bào để phát hiện ung thư cổ tử cung.
Thống kê cho hay khoảng 50% bệnh nhân với ung
thư này chưa bao giờ làm Pap, nhất là những thành phần có nguy cơ mắc bệnh
cao.Trong số đó có phụ nữ người mình. Ðã có nhiều nghiên cứu cho hay phụ nữ Mỹ
gốc Việt có tỷ lệ ung thư cổ tử cung cao gấp năm lần dân da trắng bản xứ: Việt
43.0 / 100,000; Mỹ 8.7 / 100,000, cao hơn cả ở phụ nữ các sắc dân thiểu số khác.
Vậy mà quý bà quý cô nhà ta lại ít nhận lãnh ích lợi việc làm Pap smear mà y
khoa học đã dầy công nghiên cứu và cống hiến từ nhiều thập niên.
Vì phải chăng người mình:
a-Có một kiêng kỵ taboo đối với việc xét nghiệm
Pap với thiếu nữ chưa lập gia đình;
b-Hiểu không đúng rằng chỉ phụ nữ có gia đình
mới cần Pap;
c-Không biết có sàng lọc tìm kiếm ung thư cổ tử
cung và sự ích lợi của nó?; Vì thế một số người có hiểu biết, có học làm nhiều
hơn;
d-Sợ đi khám lòi ra bệnh thì “chỉ có chết”, nên
mũ ni che tai, chẳng thà không biết;
d-Lão bà càng lớn tuổi càng ít làm Pap, vì “tôi
ngần này tuổi đầu, khỏe như voi, sanh cả chục đứa con thì Pap Piếc làm chi cho
rắc rối”?
e-Theo phong tục tập quán lâu đời, quý bà rất
ngại ngùng khi nói tới chuyện “riêng tư”, huống chi là nằm cho người không quen
nhòm ngó; Tự khám vú thì làm chứ chuyện khám ở dưới thì ngại ngùng, “em chã”.
g-Trở ngại đến với dịch vụ y tế vì ngôn ngữ khó
khăn, thiếu đối thoại lại thêm kỳ thị da mầu;
h-Có thói quen là khi nào bệnh thì đi chữa trị
nhiều hơn phòng ngừa, sàng lọc bệnh
i- Khi không có dấu hiệu bệnh thì ít khi đến
gặp bác sĩ.
Rồi đến Ung thư cặp Nhũ Hoa
Phụ nữ Việt gốc Mỹ mình có tỷ lệ ung thư nhũ
hoa thấp, so với dân da trắng bản xứ: 38/100,000 và 116/100,000. Nhưng ung thư
vẫn là nan bệnh và tử vong vì điều trị chậm, phát hiện trễ vẫn xẩy ra.
Và ở quý bà nhà mình thì ung thư này lại trầm
trọng hơn, vì chẳng chịu sàng lọc, tự khám và tham khảo ý kiến bác sĩ. Có người
để tới khi lan truyền xa rồi mới đi chữa thì bệnh đã quá muộn màng. Một thăm dò
của Seatles King County Health Department thực hiện vào năm 1995-1996 cho hay:
1/3 số nữ nhân Mỹ gốc Việt được hỏi ý kiến không biết cách tự khám nhũ hoa; 30%
biết nhưng không nghĩ tới chuyện tự khám; 29% nói khám làm gì, đâu cần thiết.
Mà việc screening thì cũng giản dị thôi. Tự
khám mỗi tháng có thể tìm ra những cục nhỏ bất thường nằm trong vú và nếu xác
định là ung thư thì điều trị hiệu quả hơn. Chụp X quang vú mỗi năm một lần kể từ
trên 50 tuổi có thể giàm tử vong từ 25 tới 35% ở người chớm bị ung thư vú.
Chẳng cũng ích lợi sao!
Lại còn viêm gan B với ung thư gan.
Theo Trung Tâm Á Châu về Ung Thư Gan tại Ðại
Học Stanford, U bướu ác tính này là nguyên nhân tử vong thứ nhì vì ung thư ở
người Mỹ gốc Việt, 13 lần cao hơn ở người bản xứ. Ngay tại Việt Nam hiện nay,
cứ 1 trong 4 người dân bị nhiễm virus viêm gan B. Mà đa số do mẹ truyền cho con
ngay khi sanh hoặc khi trưởng thành hồ hởi giao hoan với người mang bệnh mà
không biết. Họ trở thành người mang bệnh kinh niên và gây ra lây lan cho nhiều
người khác. Vì thế tất cả phụ nữ có thai ở bên Mỹ đều được thử nghiệm coi có
nhiễm viêm gan B. Nếu có thì vừa lọt lòng mẹ, bé sẽ được chích ngừa để tránh mắc
bệnh.
Ðã có nhiều hội thảo, thuyết trình khắp cộng
đồng mình về ung thư gan vì viêm gan B, mời gọi mọi người chích ngừa. Chỉ với ba
mũi chích mà bảo vệ được sức khỏe, tưởng cũng chẳng nên bỏ qua. Nhất là với quý
vị hay đi du lịch Á châu, cần chích ngừa cả viêm gan A lẫn B.
Và Ung thư ruột già cũng vậy.
Ung thư này đứng hàng thứ ba cả về nhiều ít và
tỷ lệ tử vong trong số các loại ung thư ở Hoa Kỳ với trên 75,000 người mệnh một
hàng năm. Ruột già quý vị cao niên là môi trường mầu mỡ cho loại ung thư này.
May mắn là hiện nay có nhiều phương thức có thể tìm ra ung thư ở giai đoạn phôi
thai. Như là tìm máu kín trong phẩn hàng năm, nội soi ruột già mỗi 10 năm, nội
soi trực tràng mỗi 5 năm.
Vậy mà người mình dường như cũng hay quên không
làm. Theo kết quả thăm dò do các nhà chuyên môn y tế Ðại Học California ở San
Francisco dưới sự hướng dẫn của giáo sư Judith M.E. Walsh thực hiện năm 2004 thì:
a)36% người da trắng thực hiện nội soi trực
tràng trong 5 năm vừa qua, thì chỉ có 18% người mình;
b) 31% da trắng làm nọi soi ruột gìa, người
mình có 22%;
Ðiểm son là có tới 31% người mình tìm máu ẩn
trong phẩn so với 19% sắc dân da trắng thực hiện thử nghiệm sàng lọc này.
Và người mình cũng có tỷ lệ chích ngừa các bệnh
truyền nhiễm cho con trẻ cao nhất ở Mỹ. Thật xứng đáng là hậu duệ con Rồng cháu
Tiên Hồng Lạc bốn ngàn năm văn hiến.
Kết luận
Vì tiêu đề là “Ðôi Ðiều Nhắc Nhở” nên chỉ xin
tản mạn hai chuyện mà thôi.
Còn nhiều điều khác muốn nói muốn bàn lắm.
Nhưng lại ngại rằng “Sao mà cứ vạch áo cho người xem lưng”!!
Người vạch áo thực ra là các nhà chuyên môn
nghiên cứu Việt Mỹ, giữa đường thấy sự khác thường, nêu ra.
Chẳng hạn vào năm 1990 giáo sư Nội Khoa
Stephen .J. McPhee và các cộng sự viên tại Ðại Học UCSF đã làm một cuộc thăm dò
sự hiểu biết về phòng ngừa ung thư của người Việt mình ở vùng Vịnh San
Francisco. Kết quả như sau:
a) 13%
chưa bao giờ biết/ nghe về ung thư;
b) 27%
không biết rằng hút thuốc lá là nguyên nhân lớn đưa tới ung thư phổi;
c) 28%
cho ung thư là bệnh truyền nhiễm;
d) 48%
chưa biết rằng viêm gan B có liên hệ tới tỷ lệ ung thư gan khá cao ở người Việt;
e) 32%
chưa bao giờ làm Pap smears;
f) 28%
chưa bao giờ tự khám vú;
g) 83%
chưa bao giờ chụp quang tuyến vú.
Và các nhà nghiên cứu cũng tìm hiểu lý do những
lơ là và đưa ra các đề nghị để chấn chỉnh.
Lơ là vì không biết có các dịch vụ đã có sẵn;
ít được hướng dẫn giải thích; không có bảo hiểm sức khỏe kém lợi tức; không có
bác sĩ gia đình khám trị bệnh và giới thiệu đi thử nghiệm; trở ngại ngôn ngữ và
ngại ngùng để người lạ khám nhìn cơ thể, vân vân ...
Họ đề nghị giới chức chính quyền mang dịch vụ
phòng chữa bệnh tật tới gần dân chúng; thu hẹp cách biệt chăm sóc sức khỏe; mở
nhiều thảo luận trong cộng đồng về các vấn đề y tế xã hội; có nhiều thông dịch
viên để giải thích; giúp đỡ phương tiện đi sàng lọc tìm bệnh.
Trong quảng bá kiến thức phòng bệnh, tìm bệnh
này, vai trò của truyền thông báo chí cũng đặc biệt quan trọng và vô cùng hữu
hiệu. Các nhà y khoa học đăng đàn giải thích, truyền thông liên tục phổ biến
nhắc nhở trên đài trên báo, dân chúng sẽ dần dần ý thức được ích lợi của y khoa
phòng ngừa, của y tế công cộng.
Ðể cùng nhau duy trì một sức khỏe tốt cho bản
thân, gia đình.
Rồi cùng nhau hội nhập dòng chính cho bằng
người bằng ta, chung sức xây dựng cộng đồng, làm đẹp quê hương với nhiều đóa hoa
tự do dân chủ hơn.
Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức
Texas-Hoa Kỳ