CHÚA NHẬT II C MÙA VỌNG
Br 5:1-9; Tv 126; Pl 1:4-6, 8-11;
Lc 3:1-6
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
Image: Saint John the Baptist
preaching in the Desert by Pier Francesco Mola
Giảng huấn của Gioan Tẩy Giả
1Năm thứ 15 triều đại hoàng đế
Tiberius Caesar, thời Pontius Philate làm tổng trấn xứ Judea, Herod làm tiểu
vương miền Galilee, người em là Philip làm tiểu vương miền Ituraea và
Trachonitis, Lysanias làm tiểu vương miền Abilene, 2 Annas và
Caiaphas làm thượng tế, có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Zechariah là Gioan
trong hoang địa. 3 Ông liền đi khắp vùng ven sông Jordan rao giảng, kêu gọi mọi
người chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội, 4 như có lời chép trong
sách ngôn sứ Isaiah rằng:
“ Có tiếng người hô trong
hoang địa:
“ Hãy sửa soạn đường của Đức
Chúa,
“ Sửa lối cho thẳng để Người
đi.
“5 Mọi thung lũng phải lấp
cho đầy.
“ Mọi núi đồi phải bạt cho
thấp.
“ Khúc quanh co phải nắn cho
ngay.
“ Đường lồi lõm phải san cho
phẳng.
“ 6 Rồi hết mọi người phàm…
sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên
Chúa.”
(Lc 3:1-6)
Để nắm vững phần nào ý nghĩa bài
Tin Mừng hôm nay, chúng ta nên tìm hiểu sơ qua về thánh Luca và thánh Gioan Tẩy
Giả.
THÁNH SỬ LUCA
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Dante
Alighieri gọi thánh sử Luca là kinh sư của Chúa Kito. Luca gọi Gioan Tẩy Giả là
ngôn sứ (Lc 3:2) theo kiểu nói trong Cựu Ước, và trích Isaiah (Mc 1:3), thêm
Isaiah (40:4-5) vào tác phẩm của mình (Lc 3:5-6) khi nói về Gioan. Làm như vậy
Luca muốn trình bày chủ đề của ngài về ơn cứu độ phổ quát mà ngài đã báo truớc
qua lời của Simeon (Lc 2:30-32). Chúng ta thử coi lại những chi tiết lịch sử đã
được Luca đưa ra trong câu chuyện ngôn sứ hôm nay để tìm hiểu về công tác của
Gioan Tẩy Giả.
Tiberius Caesar nối ngôi Augustus
làm hoàng đế năm 14AD và trị vì cho đến năm 37AD. Như vậy năm thứ 15 của triều
đại ông có thể là năm 27 hay 29AD. Pontius Pilate là tổng trấn xứ Judea từ năm
26AD đến 36AD. Sử gia Do Thái Josephus gọi ông là tổng trấn thô lỗ và gian tham,
ít để ý đến dân địa phương Do Thái và việc tôn giáo của họ (Lc 13:1). Vua Herod
được nói đến là Herod Antipas, con Herod Đại Đế đã cai trị xứ Galilee và Perea
từ năm 4BC đến 39AD.
Thánh Luca không những đã gọi tên
Gioan Tẩy Giả theo nhiệm kỳ của những nhà lãnh đạo dân sự mà còn nhắc đến tên
các thầy cả thượng tế Annas và Caiaphas là những vị lãnh đạo tôn giáo ở
Palestine lúc bấy giờ. Annas làm thượng tế từ năm 6 đến 15AD. Sau khi bị La Mã
truất phế vào năm 15AD thì ngôi vị được những người trong cùng gia tộc tiếp tục
và sau cùng thì người con rể là Caiaphas lên làm thượng tế từ năm 18 đến 36AD.
Dựa vào bối cảnh lịch sử xẩy ra lúc
đó, Luca để cho lời Chúa đến với Gioan trong hoang địa Judea. Luca là thánh sữ
duy nhất đã gọi những lời giảng huấn của Gioan là tiếng kêu của Chúa. Do
đó ngài đã đồng hóa Gioan với các ngôn sứ mà mục vụ của họ cũng bắt đầu với
những tiếng kêu như vậy. Sau này, Luca lại tách mục vụ của Gioan Tẩy Giả ra khỏi
mục vụ của chúa Giêsu bằng cách kể việc Gioan bị cầm tù trước khi làm phép rửa
cho Chúa (Lc 3:21-22). Luca dùng kiểu văn chưong như vậy là để nói lên sự hiểu
biết của mình về những thời kỳ lịch sử của ơn cứu độ. Với Gioan Tẩy Giả, thời
điểm hứa và thời kỳ của Israel đã kết thúc. Với Chúa Giêsu chịu phép rửa và dấu
hiệu Chúa Thánh Thần hiện xuống trên Người là thời điểm đã hoàn tất và thời kỳ
của Chúa Giêsu bắt đầu.
Trong sách Tông Đồ Công Vụ quyển
hai, Luca đã giới thiệu thời kỳ thứ ba của lịch sử ơn cứu độ là thời kỳ của Giáo
Hội. Trong Tin Mừng Luca (Lc 7:26), Gioan được tả còn “hơn cả một ngôn sứ”, là
người đi trước Chúa Giêsu (Lc 7:27) tức Gioan tiền hô, một hình ảnh
chuyển tiếp mở đầu thời kỳ những lời tiên tri và lời hứa được ứng nghiệm.
Khi nói về sự chờ mong của muôn dân
(Lc 3:15), Luca đã diễn tả những đặc tính của thời điểm Gioan giảng huấn theo
cùng một cách mà trước đó ngài đã diễn tả về tình trạng của một số người Do Thái
nhiệt thành (Lc 2:25-26, 37-38). Trong Luca 3: 7-18, giảng huấn của Gioan Tẩy
Giả được thánh nhân trình bày như thể thúc dục mọi người mau mau cải thiện, canh
tân cuộc sống vì cơn thịnh nộ sắp xẩy đến (Lc 3: 7,9). Gioan còn chỉ cho họ cách
thức canh tân đời sống, cải tạo xã hội (Lc 3:10-14), đồng thời báo cho mọi người
biết có một đấng cao trọng hơn ngài rất nhiều sắp xuất hiện (Lc 3:15-18).
GIOAN TẨY GIẢ: HÃY TÌM KIẾM CON
ĐƯỜNG TRỞ LẠI VỚI CHÚA
Những tiên tri thực của Israel giúp
chúng ta biết được những tiên tri giả, những hình thức tam sao thất bản. Gioan
tiền hô là vị thánh quan thầy chính xác vô cùng. Biết bao nhiêu lần tư tưởng,
lời nói và việc làm của chúng ta không đi đôi với nhau ! Phối hợp mọi biến cố
nơi Gioan Tẩy Giả là cả một Mùa Vọng đầy dẫy những đối chọi nhau: Sự xuất hiện
khải hoàn của Chúa rõ ràng là đã xẩy ra ngay trong thời đại đen tối, đầy tội lỗi,
sự dữ và ma quỉ. Gioan Tẩy Giả đã nghe, đã sống và đã kinh qua lời giải phóng
của Chúa trong sa mạc; vì vậy lời giảng dạy của ngài rất có hiệu quả vì lời nói
và việc làm của ngài luôn luôn đi đôi với nhau. Ngài không chau chuốt, nói bóng
gió mà ngài nói thẳng. Gioan đã phá tan sự yên tĩnh nơi hoang địa với tiếng hô
vang: “Hãy ăn năn thống hối, vì vương quốc nước trời đã đến gần.” Không
phải chỉ “ăn năn thống hối”, “sửa đổi” cách sống mà phải “vừa ăn năn thống
hối vừa sửa soạn cho vương quốc nước trời sắp đến”. Vương quốc này sẽ phá vỡ
mọi an toàn của chúng ta và lật đổ tất cả những gì chúng ta cố sức giữ lại. Vui
mừng và thách đố của mùa Vọng là Thiên Chúa sẽ đến trong Đức Giêsu Kito; những
đau đớn và khao khát Chúa đến sẽ được toại nguyện. Nhưng Thiên Chúa đến là gây
xáo trộn.
Thông điệp của Gioan Tẩy Giả không
có gì là ẩn ý chính trị, ngài đi thẳng vào vấn đề và nói ra những điều cần phải
nói. Ngài nói trực tiếp với người đến hỏi ngài. Ngài biểu những người thu thuế
hãy công bằng, những người lính hãy giữ an ninh và hòa bình.
Thánh Gioan Tẩy Giả đã chỉ dạy cho
dân chúng thời của ngài và cả thời chúng ta là đấng Thiên Sai đến để giải cứu
chúng ta khỏi mọi quyền lực giả trá, thất vọng, tối tăm và sự chết, đưa chúng ta
trở lại đường ngay nẻo chính của hòa bình và hòa giải hầu chúng ta có thể tìm ra
được con đường trở lại với Chúa. Cuộc sống và sứ mệnh của thánh Gioan Tẩy Giả
cho chúng ta thấy quả thực chúng ta quá cần đấng CứuThế đến để cứu chuộc chúng
ta, để chúng ta xứng đáng với những danh hiệu mà Chúa đã gọi chúng ta và những
gì chúng ta đã làm để được sống trong Sự Sáng. Chúng ta thường không nhận ra
giữa chúng ta có một đấng là Đường, là Sự Thật và Sự Sống. Đây là tất cả
những gì mà mùa Vọng nhắc nhở chúng ta: Hãy tìm kiếm con đường trở lại với
Chúa.
THAY LỜI KẾT: CẢI ĐỔI NHỮNG SA
MẠC HOANG VU
Mùa Vọng là một mầu nhiệm có mục
đích cải đổi, không chỉ là báo tin. Mùa Vọng là hiện thân của đối nghịch giữa
chờ đợi và hối hả, giữa đau khổ và vui mừng, giữa kết án và tha thứ, giữa sầu
buồn khải huyền và hy vọng ngày cánh chung. Nhưng đối với nền văn hóa ăn liền,
muốn thỏa mãn ngay lập tức, hy vọng lại đòi hỏi cái gì bất toàn. Hy vọng,
theo nghĩa của Mùa Vọng thực, là sống với một ao uớc chưa hoàn thành.
Thiên Chúa là kỹ sư đường lộ, làm
những con đường mới xuyên qua hoang địa, người làm vườn biến đổi sa mạc thành
những vườn hoa đầy màu sắc tươi đẹp, và giờ này trở thành người họa sĩ vẽ nên
một viễn tượng mới về lời hứa của một đấng thiên sai xa xưa là HY VỌNG. Hy vọng
vào Thiên Chúa thì không thể đứng yên tại chỗ, như tiên tri Isaiah đã nhắc nhở,
chúng ta phải hy vọng vào Chúa là đấng luôn luôn làm điều mới lạ. Niềm hy vọng
vào Chúa của chúng ta có đứng vững trước những xáo trộn và thất bại không? Chúng
ta sống Lời Chúa ra sao? Chúng ta ở thinh lặng với Chúa như thế nào?
Mùa Vọng chỉ cho chúng ta biết nếu
chúng ta giữ tâm hồn lắng đọng đủ, chúng ta sẽ khám phá thấy Thiên Chúa vẫn còn
thiết lập những xa lộ và biến những nơi hoang vu của cuộc sống chúng ta thành
những mảnh đất phì nhiêu đặc biệt, đầy sức sống và vẻ đẹp huy hoàng mà chúng ta
không tưởng tượng ra được. Biến cải sa mạc hoang vu thì cần có nước. Trong suốt
chiều dài cựu ước, Thiên Chúa được nói đến là đấng có thể ban cho nước và cắt bỏ
nước, một hình ảnh dễ hiểu đối với những người mà nước là một nhu cầu quí báu
không thể thiếu. Chúng ta, it ngưòi hiểu được thế nào là hạn hán ở thời đại mà
khoa học kỹ nghệ tân tiến chưa có. Ngày nay nước được dẫn vào tận nhà quá dễ
dàng khiến chúng ta không thể mường tượng được sự cần thiết của Thiên Chúa trong
đời sống chúng ta nếu thiếu Người. Tương tự như vậy, điện cho ta cái ảo tưởng là
ta điều khiển được bóng tối. Cả hai thứ ấy đã không cho ta cái kinh nghiệm hàng
ngày về những nhu cầu sống mà Mùa Vọng đang kêu gọi chúng ta suy nghĩ lại để
thấy là chúng ta vẫn phụ thuộc vào Thiên Chúa, duyệt xét lại những ước mơ chúng
ta muốn có Chúa, để rồi khám phá ra rằng qua những đêm dài chờ đợi, việc Chúa
đến quả là cần thiết và cấp bách.
Thông điệp Mùa Vọng không có nghĩa
là tất cả mọi sự đều tan vỡ, cũng như Chúa không phải chỉ ở trên thiên đàng, do
đó tất cả mọi sự đều tốt đẹp ở trần gian này. Thông điệp Mùa Vọng ví như các vì
sao nằm cố định trên một địa bàn luân lý nếu bị rung rinh thì tất cả mọi sự trên
mặt đất này đều bị xáo trộn, lúc đó một lần nữa chúng ta lại nghe thấy sứ điệp
của thánh Gioan tiền hô:
“Hãy sửa soạn đường cho Chúa,
lối quanh co nắn cho thẳng, thung lũng xâu lấp cho đầy, núi đồi cao phạt xuống
cho thấp, đường lồi lõm phải san cho đều, và rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn
cứu độ của Thiên Chúa.”
Tuy nhiên với Chúa Giêsu giáng sinh,
chúng ta học được bài học là Jerusalem và Israel vẫn còn chờ đợi ơn cứu chuộc.
Thế giới vẫn còn chờ mong giải thoát khỏi đói kém, chiến tranh, áp bức, bạo lực
và đau khổ. Tất cả chúng ta còn phải mong đợi ơn cứu chuộc. Mùa Vọng buộc chúng
ta nhìn vào cách thức chúng ta chờ mong, chúng ta ao ước Thiên Chúa và chúng ta
hy vọng. Ai và cái gì là suối nguồn hy vọng trong mùa Vọng này?
Cuộc sống của Gioan Tẩy Giả có thể
tượng hình là ngón tay chỉ vào đấng đang tới là Đức Giêsu Kitô. Nếu chúng ta coi
nhiệm vụ của Gioan là sửa soạn đường để đón Chúa đến cho thế giới ngày nay, thì
cuộc sống của chúng ta cũng phải trở nên những ngón tay chứng nhân sống động
chứng tỏ Chúa Giêsu có thể tìm ra được và Người đang tới gần rồi. Chúa Giêsu
chính là người hoàn chỉnh mong ước, hy vọng và đợi chờ của chúng ta. Một mình
chúa Giêsu có thể cải đổi cuộc sống sa mạc của chúng ta thành những vườn cây với
hoa trái tươi đẹp, đầy dẫy của nuôi cho toàn thể nhân loại.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa hãy đến.
Chúng con cần Chúa bây giờ hơn bao giờ hết!
Fleming Island, Florida
Dec 2018