Thứ Hai trong tuần thứ XIX TN
Ed 1:2-5,24-28; Tv 148:1-2,11-12,12-14,14; Mt 17:22-27
Trang Tin Mừng hôm nay chia làm hai phần rõ rệt, phần đầu chỉ gồm hai câu vắn
gọn, Thánh sử Matthêu nêu bật nội dung tiên báo về cuộc thương khó lần thứ hai
của Chúa Giêsu, phần cuối gồm bốn câu Chúa Giêsu hé mở một chút về danh phận
thiên tính của Ngài qua việc nộp sưu thuế cho đền thờ theo luật Do Thái.
Thường tình trong đời sống xã hội, ai cũng thích nghe và thích loan báo tin vui,
tin thành công, tin chiến thắng, cho những người thân tín của mình. Nhưng với
Chúa Giêsu thì đoạn Tin Mừng Mt 17, 22-23 này lại đi ngược cái lẽ thường tình ấy.
Một lần nữa Ngài lại loan báo về cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Ngài cho các môn
đệ, khi họ sum họp. Ngài tiên báo thời điểm đã gần kề “Con Người sắp bị nộp vào
tay người đời”. Đối tượng là người đời, là người thuộc ve trần gian, về thế giới
của bóng đêm, tội lỗi và sự dữ. Người đời sẽ làm gì Ngài? “ Họ sẽ giết chết
Người”. Đấy là cách con người đối xử với một người mà họ thọ ơn. Người đến chữa
lành bệnh tật, xua trừ ma quỉ, cho người chết sống lại... nhưng họ lại biết ơn
bằng cách “ giết chết”.
Và rồi đến đây, ta không thể hiểu mầu nhiệm của Tình Yêu Thiên Chúa. Một Tình
Yêu vượt trên mọi hiểu biết, một Tình Yêu có kích thước dài, rộng, cao, sâu (Ep
3,18-19) “ ngày thứ ba Người sẽ chỗi dậy”.
Đây chính là tiền Tin Mừng Phục Sinh. Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng Phục Sinh
ngay khi Ngài vẫn sống trong kiếp con người. Chúng ta thấy thái độ các môn đệ
rất buồn phiền khi nghe hung tin này. Đó là lẽ thường tình, không ai muốn thua
thiệt, thất bại hay chết chóc. Nhưng Con Thiên Chúa đã chọn Thập giá làm đường
dẫn tới vinh quang.
Ca-phac-na-um là một thành miền Galilê. Khi Đức Giêsu và các môn đệ đến thành
này thì gặp những người thu thuế cho đền thờ. Đây là thuế hàng năm mà mỗi người
Do thái đến tuổi, phải đóng thuế cho việc chi tiêu trong Đền thờ. Mỗi người sẽ
phải nộp hai quan. Lúc này, Chúa Giêsu là người có danh tiếng và uy thế trong
vùng, nên người Do Thái quan tâm và để ý xem Ngài có nộp thuế cho đền thờ không
? có chống lại những qui tắc của đền thờ không ?.
Các nhân viên thu thuế đền thờ có vẻ ì xèo đánh tiếng hỏi ông Phê-rô: “Thầy các
ông không nộp thuế sao?” Chẳng biết vì nể hay sợ “tai tiếng” ông đáp: “Có chứ !”
Ông về đến nhà Đức Giê-su liền hỏi đón mà chất vấn luôn: "Anh Si-môn, anh nghĩ
sao ? Vua chúa trần gian bắt ai đóng sưu nộp thuế ? Con cái mình hay người ngoài?"
Ông Phêrô đáp: "Thưa, người ngoài." Đức Giê-su liền bảo: "Vậy thì con cái được
miễn”. Ông hiểu vậy là không phải nộp, nhưng “để khỏi làm gai mắt họ”, Ngài chỉ
cho ông tìm cách xoay sở để nộp thuế đền thờ đầy đủ cho cả Thầy và trò. Đức
Giê-su chính là Con Thiên Chúa, là chủ đền thờ, không cần phải nộp thuế, người
nhà với nhau cả mà !
Nhưng ta thấy Chúa Giêsu đã vượt lên trên bổn phận, không nại vào luật lệ để
tránh né, nhưng trong khiêm hạ và tuân thủ như một người Do-thái bình thường.
Ngài xuống thế nhập thể để sống trọn kiếp người trong trần gian với tất cả hệ
lụy của nó.“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết
duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang,
mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế (Pl 2,
6-7).
Họ hỏi ông Phêrô “Thầy các ông không nộp thuế sao? (c .24 ). Ông Phêrô đáp ngay:
Có chứ. Điều này Phêrô khẳng định và xác định mạnh mẽ về danh phận con người của
Đức Giêsu. Ngài là người Do Thái, tuân giữ luật Môsê và nộp thuế đó là chuyện
đương nhiên. Phêrô cho rằng ý nghĩ của mình đúng, nên ông trả lời chắc chắn như
vậy.
Ông không hỏi Chúa Giêsu xem ý Ngài thế nào và ông cũng không trả lời với những
người đã hỏi ông : vì sao họ không hỏi trực tiếp Chúa Giêsu. Ông tin vào trực
giác, vào cảm nhận của mình về Thầy mình. Đó là một con người sống trong đất
nước Do Thái, sinh trưởng trong phong tục, văn hoá và mang trong mình dòng máu
Do Thái, thì ắt hẳn chuyện nộp thuế là chắc chắn rồi.
Nhưng khi về tới nhà, Đức Giêsu hỏi đón ông. Ngài cất lời gợi mở cho ông về
thiên tính của Ngài “Anh nghĩ sao ? Vua chúa trần gian bắt ai nộp thuế ? Con cái
hay người ngoài ?. Một câu hỏi chỉ là để xác định cho rõ. Một câu hỏi mà ta thấy
ai có trí khôn cũng có thể trả lời được. Và Phêrô thưa chỉ có người ngoài nộp
thuế mà thôi. Chúa Giêsu nhấn mạnh làm cho rõ hơn : Vậy con cái được miễn (
c.26). Ở đây Chúa Giêsu giới thiệu mình là Con Thiên Chúa, không cần phải nộp
thuế cho đền thờ, nơi Thiên Chúa ngự trị, nơi con người dâng lễ vật lên Thiên
Chúa.
Và Đức Giêsu nói tiếp: “Nhưng để khỏi làm gai mắt họ...”. Nếu Đức Giêsu không
nộp thuế theo lập luận Ngài là Con Thiên Chúa, thì người Do Thái sẽ cho Ngài là
nói phạm thượng khi tự cho mình là Thiên Chúa. Đây chưa phải là lúc, là giờ mà
Ngài bày tỏ chân tính của mình như Ngài ở trước toà Philatô. Lúc ấy Ngài nhận và
tự xưng là Đấng Mêsia, là Vua (Lc 23,3) hoặc Ngài đã tuyên xưng mình là Đức Kitô,
là Con Thiên Chúa khi vị Thượng tế hỏi Ngài, đến độ ông ta phải xé áo mình ra vì
cho rằng đó là lời nói phạm thượng (Mc 14,61-64). Vì chưa đến giờ Ngài về cùng
Cha, nên Ngài nói tiếp... Anh ra biển thả câu... bắt cá... lấy bốn quan nộp thuế
cho phần Thầy và phần anh. Tình tiết này khiến chúng ta thấy lý thú khi đọc.
Vì sao Chúa Giêsu không lấy tiền trong túi để nộp thuế ? Tại sao con cá có đồng
tiền quan lại là con cá câu trước nhất? Qua những vấn đề được đặt ra chúng ta
thấy Chúa Giêsu đang tỏ lộ dần thiên tính của Ngài. Ngài như biết trước vận mệnh,
những điều xảy ra trong tương lai. Ngài chứng tỏ mình có khả năng trên mọi vật,
mọi sự kiện. Tất cả như đang tiến hành theo kế hoạch của Ngài. Ngài là Đấng điều
khiển dòng lịch sử này. Ngài là chủ thế giới muôn loài, là chủ lịch sử.
Chúa Giêsu về với phận làm con trong kiếp nhân sinh. Ngài bình thản báo cho môn
đệ biết con đường phía trước. Ngài chủ động đi trên con đường này bằng tất cả tự
do của người con thảo hiếu với Chúa Cha mặc dù Ngài có quyền hy sinh và có quyền
lấy lại mạng sống mình (x. Ga 10, 18).
Trong tư cách là con người, là công dân, Đức Giêsu sử dụng tự do với ý thức vì,
với và cho người khác. Ngài dùng tự do của mình để đón nhận quy luật trần gian
và tuân thủ việc đóng thuế nhằm tránh gây cớ vấp phạm cho người khác. Cho hay,
tự do của Chúa Giêsu là tự do của một người con luôn hướng về Cha mình với tất
cả lòng thảo hiếu và vâng phục, sẵn sàng làm tất cả để tỏ lộ tình yêu dành cho
Cha, để làm vui lòng Cha.
Ta thấy một hiện thực đau khổ là ngày nay con người đang loại dần Thiên Chúa ra
khỏi cuộc sống của họ. Đã nhiều lần ta con thầm trách người Do Thái sao kém lòng
tin, nghi ngờ về quyền năng và Tình Yêu của Chúa. Nhưng, bây giờ chúng ta lại
bước trên những lối đi ấy. Và ta cũng thường chối từ, đang gạt Thiên Chúa ra
khỏi đời mình, ra khỏi quỹ đạo vũ trụ vì cho rằng con người đang làm chù thời
gian bằng chất dược liệu trường sinh bất tử; con người đang làm chủ vũ trụ bằng
cách thay trời làm mưa, làm nắng. Con người đang muốn thống trị thiên nhiên,
thống trị địa cầu. Nhưng chính những lúc khoa học tiến bộ lên tới đỉnh cao thì
con người lại cảm thấy hụt hẫng, trống vắng và cô đơn lạ lùng. Xin cho mỗi người
chúng ta biết nhận ra một điều : Chỉ có Thiên Chúa mới lấp đầy những khao khát
về chân, thiện, mỹ mà thôi.