Long Thành.
Hiện
trạng đáng buồn
Lâu nay Việt Nam ta nói nhiều đến khái niệm “chảy máu chất xám”, diễn tả hiện
trạng những trí thức mất cơ hội cống hiến cho nước nhà, phải đưa tài trí và tâm
huyết đi phục vụ cho các ngành khoa học ở nước ngoài.
Nhưng còn một thực trạng đáng nói nữa, cũng từ nhiều năm nay, chính phủ Việt Nam
thực hiện và cho phép thực hiện chế độ “xuất khẩu lao động”, nay gọi với cái tên
mĩ miều hơn chế độ “tu nghiệp sinh” hoặc “thực tập sinh”. Khởi đầu chỉ những
doanh nghiệp nhà nước mới có quyền làm, những năm gần đây đã cấp phép cả cho tư
nhân. Cho nên, dịch vụ này có xu hướng đang phát triển mạnh.
Các doanh nghiệp thực hiện gọi là các công ty phái cử. Thường thì các công ty
phái cử của Việt Nam hợp tác với các nghiệp đoàn của nước ngoài, các nghiệp đoàn
ấy đi tìm các doanh nghiệp trong nước họ có nhu cầu tuyển lao động nước ngoài.
Và qua đó, các bạn trẻ (có tay nghề và cả không có) được đưa đến các công ty,
nhà máy, công xưởng…, để làm việc, chủ yếu ở các ngành công việc nặng nhọc: cơ
khí , hàn xì, nấu ép nhựa, điện tử, may mặc, sơn, chăn nuôi, trồng trọt…
Đây là một hoạt động rất “béo bở” cho các công ty phái cử và các nghiệp đoàn
nước ngoài. Các công ty phái cử ngoài thu lợi từ việc nộp phí xuất cảnh của
người lao động (NLĐ), họ còn thu một khoản đáng kể từ lương tháng của NLĐ trong
suốt thời gian khoảng 3 năm làm việc ở nước ngoài. Càng đưa được nhiều người đi,
họ thu lợi càng cao. Cho nên đôi khi, một số công ty phái cử bất chấp lợi ích,
sự an toàn, và điều kiện làm việc của NLĐ, họ hợp tác với những nghiệp đoàn hoặc
doanh nghiệp không tốt ở nước ngoài, và đưa NLĐ của mình đi như “mang con bỏ chợ”
để thu lợi.
Các bộ phận “tạo nguồn” của công ty phái cử về tận địa phương để quảng bá và
tuyển mộ. Rất nhiều bạn trẻ, chủ yếu ở độ tuổi 18 – 30, đã và đang được mời gọi
tham gia vào chế độ “tu nghiệp” này. Họ là người đang ở độ tuổi rực rỡ nhất về
sức khỏe, sự năng động, sáng tạo. Nhưng cái rực rỡ ấy lại phải đưa đi cống hiến
cho người ngoài. Chắc bản thân các em và gia đình cũng không muốn, nhưng vì
trong nước quá thiếu công ăn việc làm, đành phải xa gia đình, vợ con, người yêu,…
đem thân đi làm giầu cho nước người, lao động trong một hoàn cảnh khá khắc
nghiệt, bị quản lý nghiêm ngặt về thời gian, suốt 3 năm không được về thăm gia
đình. Chẳng may gặp sự cố gì, việc nhờ cậy giúp đỡ cũng khó khăn, cả về khả năng
lẫn điều kiện.
Đồng lương của NLĐ được trả cũng rẻ hơn nhiều so với người bản xứ cùng làm công
việc như nhau, đã vậy còn phải khấu trừ đi non một nửa để nuôi nghiệp đoàn và
công ty phái cử. Thế là chẳng khác chi một cổ đôi ba tròng, bị ăn trên đầu trên
cổ.
Trách nhiệm người quản lý xã hội
Để thất thoát một nguồn lao động ở độ tuổi sung mãn như vậy thật đáng tiếc.
Trách nhiệm đầu tiên phải thuộc về Nhà Nước, những người quản lý xã hội hiện
nay. Đã không tạo ra được đủ công ăn việc làm, không xây dựng được những công ty,
công xưởng, nhà máy,… thành môi trường làm việc tốt cho người dân; lại còn lấy
đất đai của dân để đầu tư vào các dự án tốn kém mà chỉ phục vụ cho một số rất
ít người, ví dụ các dự án sân gôn. Đền bù cho họ không được là bao, tiền đền bù
người nông dân tiêu chẳng mấy chốc hết, ngó ruộng đất thì mất rồi, thành ra thất
nghiệp trắng tay.
Giáo huấn xã hội Công giáo (GHXHCG) chỉ rõ rằng:
“Vấn đề công ăn việc làm đang thách thức trách nhiệm của Nhà Nước, là cơ quan có
nhiệm vụ đẩy mạnh các chính sách lao động tích cực, tức là những chính sách
khuyến khích tạo công ăn việc làm ngay trong lãnh thổ quốc gia. Nghĩa vụ của
Nhà Nước không phải là trực tiếp bảo đảm quyền lao động của mỗi công dân, khiến
cho toàn bộ đời sống kinh tế trở nên hết sức cứng nhắc, cũng như hạn chế các
sáng kiến tự do của cá nhân, cho bằng là “duy trì các hoạt động kinh doanh bằng
cách tạo ra những điều kiện có thể bảo đảm có công ăn việc làm…”
(x. TLHTXHCG 291).
Trách nhiệm của nền giáo dục thiếu thực dụng
Ngành giáo dục của ta chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển về khoa học, kỹ thuật
và công nghệ của thời đại. Việc học còn quá thiếu tính thực dụng. Một sinh viên
mới ra trường được tuyển vào làm trong một công ty phần mềm chia sẻ: “Chúng em
vào công ty, phải được các kỹ sư nước ngoài và đồng nghiệp lớp anh chị huấn
luyện cho từ những cái cơ bản, mới làm việc được..”. Các trường dạy nghề hiện
nay còn quá thiếu và không trang bị được tay nghề cần thiết, đáp ứng nhu cầu
công việc cho các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài tại Việt Nam. Cho
nên nguồn lao động trẻ được tuyển dụng theo chế độ “tu nghiệp sinh” ấy đa số làm
những công việc chân tay, thấp kém và nặng nhọc nhất…
“Duy
trì công ăn việc làm càng ngày càng lệ thuộc vào khả năng chuyên môn của người
lao động. Các hệ thống giáo dục và đào tạo không được bỏ qua việc đào tạo nhân
bản hay công nghệ, là những điều rất cần để đương sự có thể chu toàn trách nhiệm
một cách hiệu quả. Nhu cầu ngày càng phổ biến là mỗi người phải thay đổi việc
làm nhiều lần trong cuộc đời mình đòi hệ thống giáo dục phải cổ vũ mọi người sẵn
sàng tham gia việc cập nhật và tái huấn luyện liên tục. Người ta nên dạy người
trẻ biết hành động theo sáng kiến của mình, dám nhận trách nhiệm đương đầu bằng
khả năng chuyên môn của chính mình trước những rủi ro gắn liền với bối cảnh kinh
tế biến động – một bối cảnh thường không thể dự đoán được.”
(x. TLHTXHCG 290)
Trách nhiệm của người sở hữu quá nhiều của cải & điều kiện (các đại gia)
Việt Nam hiện tại không thiếu người có rất nhiều tiền của và cả khả năng tài trí.
Chỉ cần vào gút-gồ (google) nhập chữ ‘đại gia’ và tìm kiếm, thì ra không biết
bao nhiêu thông tin đại gia từ Bắc chí Nam: đại gia xây nhà trăm tỷ, lâu đài đẹp
như mơ của đại gia Việt, đại gia ‘lộ’ khối tài sản ngầm ngàn tỷ, đại gia và chân
dài,…vv… Các đại gia của ta không biết làm ăn cách nào, nhưng vô cùng giàu có,
khoảng cách họ với những người làm công cho họ có thể lên đến hàng nghìn, hàng
triệu lần. Và khi giàu có rồi họ lo tôn tạo cơ ngơi, nơi ở rất hoành tráng xa
hoa, như vua chúa ngày xưa; và ăn chơi hưởng thụ tối đa, ném tiền qua cửa sổ vào
những dịch vụ ăn uống xa xỉ, hưởng lạc với các chân dài, gái đẹp rất phóng túng...!
Đúng ra họ phải quan tâm đến xã hội và công ích, đến những hoàn cảnh sống của
đồng bào mình hơn. Họ nên dùng tiền của và tài trí để tạo lập nên nhiều cơ hội
việc làm hơn cho giới lao động, đồng thời thiết định một qui chế lao động với
các chế độ công bằng hơn trong tương quan giữa người sử dụng lao động và người
lao động, để tránh rơi vào tình trạng giới chủ thì thu lợi quá nhiều, người lao
động thì đồng lương không đủ sống.
Nếu không như thế, theo Nguyên tắc Liên đới của GHXHCG, các đại gia có thể ở vào
tình trạng mắc nợ xã hội mà không lo trả:
“Nguyên
tắc liên đới đòi hỏi con người hôm nay phải ngày càng nhận thức rõ hơn rằng họ
chính là người mắc nợ xã hội mà trong đó họ là thành viên. Họ là những người mắc
nợ vì tất cả những điều kiện đã làm cho cuộc sống của họ trở nên đáng sống, và
vì những di sản không thể phân chia được nhưng rất cần thiết do văn hoá, do sự
hiểu biết khoa học và kỹ thuật, do của cải vật chất và phi vật chất cũng như do
tất cả những gì mà điều kiện con người mang lại…”
(x. TLHTXHCG 195)
Nguyên tắc Công ích trong GHXHCG cũng chỉ ra rằng, người ta không được quyền
sống làm ngơ (vô cảm) với người khác, với những hoàn cảnh sống xung quanh mình.
Một xã hội mà các thành phần dân chúng sống trong đó phát triển đều thì mới tốt
đẹp, văn minh và ổn định:
“Con người không thể tìm được sự phát triển mỹ mãn nơi chính bản thân mình, nếu
bỏ qua sự kiện là con người hiện hữu “với” người khác và “vì” người khác. Sự
thật này không chỉ bắt con người phải sống với người khác ở các cấp độ khác nhau
trong đời sống xã hội, mà còn bắt con người phải không ngừng tìm kiếm – không
chỉ tìm kiếm trong ý tưởng mà cả trong thực tế cụ thể – điều tốt, tức là ý nghĩa
và sự thật, được tìm thấy trong hết mọi hình thức đang có của đời sống xã hội…”
(x. TLHTXHCG 165)
Không ai có quyền cho mình đứng ngoài việc xây dựng công ích, người có khả năng
hơn, có điều kiện hơn thì càng phải đóng góp nhiều hơn:
“Công ích có liên quan tới mọi thành phần trong xã hội, không ai được miễn cộng
tác vào việc thực hiện và phát huy công ích, tuỳ theo khả năng của mỗi người…”
(x. TLHTXHGC 167)
Hiện trạng nước ta hiện nay có quá nhiều việc cần phải khắc phục, nhìn vào đâu
cũng có vấn đề. Muốn làm thì phải có nhân sự, nhân sự hiện tại thừa mà lại thiếu.
Người có khả năng và điều kiện thì hoặc không có cơ hội cống hiến, hoặc không
chịu cống hiến cho đất nước; số khác có khả năng và sức khỏe nhưng không có điều
kiện phát huy, thì bị nước ngoài trưng dụng mất. Thành ra tổn hại cho nguyên khí
quốc gia biết chừng nào. Trong tình cảnh đó, GHXHCG đủ sự soi sáng và hướng dẫn
cần thiết để khắc phục hầu hết các vấn đề của xã hội, có điều chúng ta có biết
tận dụng nguồn cẩm nang quí báu này không?
Trích
Tập san ghxhcg số 19