Trước khi bàn luận về sự tương tác giữa con người và môi trường sống, ta cùng
tìm hiểu một chút về môi trường. Ngày nay, thuật ngữ môi trường được dùng khá
rộng rãi trong nhiều lãnh vực khác nhau như: ô nhiễm môi trường, bảo vệ môi
trường, môi trường sống lành mạnh, môi trường giáo dục nơi gia đình, môi trường
giáo dục của xã hội, môi trường kinh tế, môi trường lao động, cải tạo môi
trường, biến đổi môi trường… Trên Đại Học có cả một ngành học về môi trường…Cũng
vì thế, mà có biết bao định nghĩa về môi trường. Ta tạm nhìn nhận cách phân loại
và định nghĩa môi trường của trường Đại Học Đông Á gồm ba loại môi trường:
“Môi
trường tự nhiên: bao gồm các yếu tố Vật lý, Hóa học, Sinh học… tồn tại khách
quan ngoài ý muốn của con người như: đất, nước, không khí, sinh vật…
Môi trường xã hội là tổng thể các mối quan hệ giữa người với người tạo nên sự
trở ngại hoặc thuận lợi cho sự phát triển của xã hội loài người.
Môi trường nhân tạo là tất cả các yếu tố tự nhiên, xã hội do con người tạo nên
và chịu sự chi phối của con người”
(Khái niệm về môi trường, Đại học Đông Á).
Sau khi đã tìm hiểu một chút khái niệm về môi trường, ta cùng bàn đến một số
tương tác giữa con người và môi trường. Cụ thể hơn là con người có thể đã chịu
ảnh hưởng của môi trường ra sao? Và con người bằng cách nào có thể biến cải môi
trường sống của mình ngày tốt hơn?
Con người có thể đã chịu ảnh hưởng của môi trường.
Tục ngữ Việt Nam có câu: “ở
bầu thì tròn, ở ống thì dài”
hay “gần
mực thì đen, gần đèn thì sáng”.
Theo nghĩa bóng, lời dạy của tiền nhân thì nếu được ở trong môi trường tốt sẽ
tạo ra con người tốt; ngược lại, nếu ở trong môi trường xấu sẽ tạo ra con người
xấu.
Chuyện cổ “Vỏ quýt dầy có móng tay nhọn” thời Chiến Quốc đã mổ tả: vua nước Sở
muốn hạ nhục Án Anh, con vị tướng nước Tề khi sang thăm nước Sở. Khi vua Sở đang
tiếp Án Anh thì cùng lúc đó vua ngầm cho lính trói một người nước Tề gán mang
tội ăn trộm đưa vào trình vua. Vua Sở hỏi: người này nước nào? Tội gì?. Một tên
lính thưa: tên này là một người nước Tề phạm tội ăn trộm. Vua Sở mỉm cười chế
nhạo nói với Án Anh: người quí quốc hay trộm cắp nhỉ! Án Anh bình tĩnh trả lời:
“chúng tôi thiết nghĩ, cây quýt mọc ở đất Hoài Nam có quả rất ngọt, nhưng đem
sang trồng ở đất Hoài Bắc thì quả lại chua. Đó là do thủy thổ khác nhau mà sinh
ra thế. Người nước Tề chúng tôi không quen trộm cắp, nhưng sang nước Sở lại sinh
ra ăn trộm có lẽ cũng là vì thủy thổ giữa bản quốc và quí quốc khác nhau chăng?
Vua nước Sở định làm nhục Án Anh, ngờ đâu chính mình lại bị nhục.
Câu chuyện bà quả phụ Chương Thị, thân mẫu của thầy Mạnh Tử (541- 479 TCN) phải
chuyển nhà ba lần với mục đích để con được ảnh hưởng tốt của môi trường sống.
Sau này, thầy Mạnh Tử trở thành một vĩ nhân của nhân loại cũng mang ý nghĩa đó.
Khi nhà gần nghĩa trang, Mạnh Tử chỉ chơi trò “chôn cất, khóc lóc…”. Bà Chương
Thị chuyển nhà đến gần chợ. Nơi đây, Mạnh Tử chỉ lo chơi trò “mua bán, to tiếng,
cãi vã, mánh lới...”. Sau cùng bà chuyển nhà đến gần trường học, Mạnh Tử lo chăm
chỉ học hành, sau này đã thành người hữu ích cho bao đời sau.
Qua những mẩu chuyện trên, ta thấy môi trường đã ảnh hưởng khá nhiều đến sự hình
thành nhân cách và phát triển của con người, đặc biệt là những người trẻ. Đúng
thế, tuổi trẻ người ta thường ví như một tờ giấy trắng, những nét vẽ đầu tiên
trên tờ giấy đó sẽ in đậm mãi mãi. Sau này, muốn thay đổi cũng không dễ. Điều đó
giúp ta nhận ra là môi trường giáo dục nơi gia đình quan trọng đối với người trẻ
biết bao! Môi trường đó chính là nét vẽ đầu tiên trên trang giấy trắng tinh, tâm
hồn người trẻ. Một gia đình đạo đức, nề nếp, sống yêu thương, biết tha thứ thì
con cái ít nhiều cũng được thừa hưởng những giá trị cao quí đó. Một gia đình lôn
xộn, thiếu đạo đức, thiếu yêu thương, luôn hận thù, sống bất chính thì những đưa
trẻ làm sao có được nhân cách tốt. Có lẽ vì thế mà ông cha ta đã nói: “Dạy
con từ thưở còn thơ, dạy vợ từ thưở bơ vơ mới về”
hay: “Con
nhà tông không giống lông cũng giống cánh”
và dạy ta: “lấy
vợ xem tông, lấy chồng xem giống”
là như thế!
Con người bằng cách nào có thể biến môi trường ngày tốt hơn?
Môi trường tác động trên con người là điều hiển nhiên, có thật trong cuộc sống
này như ta đã đề cập đến ở phần trên. Nhưng con người có thể tác động trên môi
trường, biến đổi môi trường ngày một tốt hơn không? và nếu có thì con người cần
phải làm gì?
Đây là vấn đề quá rộng lớn, ta không thể bàn hết trong một sớm một chiều với năm
mười trang viết. Lịch sử của nhân loại với sự góp sức của bao lớp người, của các
Tôn giáo và của những nhà Khoa học, những bậc Thánh nhân đã chứng tỏ con người
có khả năng làm biến đổi môi trường ngày một tốt hơn, và cũng chính con người đã
làm cho môi trường ngày một hủy hoại và xấu đi.
Những nhà Khoa học chân chính, ở mọi lãnh vực như: Khoa Học Nhân Văn, Khoa Học
Xã Hội, Khoa Học Tự Nhiên…từ các nhà: Toán học, Vật Lý, Hóa học, Sinh học, Y
học, Địa lý, Thiên Văn đến các nhà Tu đức chân chính, Hiền triết, các Nhà Văn…
từ bao đời nay đã ngay đêm nghiên cứu, làm việc, có khi hy sinh cả mạng sống mới
phát minh ra được bao điều hữu ích đem đến cho nhân loại một nền văn minh tiến
bộ vượt bực về: Giao thông, Thông tin, Văn hóa , Kinh tế, Chính trị, Xã hội, Y
học…như ngày nay. Những giá trị đạo đức từ: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín của Khổng
Mạnh đến Từ, Bi, Hỷ, Xả, của Phật giáo, tiếp đến là Công bằng, Bác ái, Yêu
Thương, Tám Mối Phúc của Công Giáo thời Tân Ước và 10 Điều Răn thời Cựu Ước… đã
tạo ra một kho tàng văn hóa đầy tính nhân văn cao đẹp vô giá giúp cho con người
sống có kỷ cương, ngày một hạnh phúc hơn, xã hội ngày một phát triển và văn minh
hơn.
Nhưng cũng chính con người đã tạo ra những cuộc đối đầu âm thầm, hay những cuộc
chiến tàn khốc với nhau, gây bao đau thương chết chóc cho nhân loại khắp mọi nơi
trên thế giới như trong hai cuộc chiến tranh thế giới 1914-1918 và 1939-1945, đã
làm hàng chục triệu người chết và tàn phế, và còn biết bao cuộc chiến khác đã
cướp đi phần hạnh phúc của con người, đẩy con người vào vùng tăm tối, lao đao,
chết chóc, tuyệt vọng…
Từ bao đời nay, và ở khắp nơi, con người đã có biết bao giải pháp từ Chính trị,
Văn hóa, Kinh tế, Quân sự… hầu mong giúp thế giới được hòa bình, nhân loại được
hạnh phúc. Nhưng hiện thế giới vẫn còn nhiều nơi đang chiến tranh, bao người vẫn
sống trong bất an, phập phồng lo sợ.
Hiện tại, các Tôn giáo trong đó có nhiều đoàn hội, phong trao đang ra sức tìm
mọi giải pháp với mong ước thực hiện được lý tưởng của đạo giáo của mình là đưa
thế giới đến bình an, con người được hạnh phúc đời này và đời sau. Đó là điều
thật quí và đáng trân trọng biết bao!
Ở đây, trong phạm vi thật khiêm tốn, chúng tôi chỉ xin nêu một sự cố gắng của
phong trào Cursillo, một phong trào của Giáo Hội Công Giáo đã được khai sinh từ
những thập niên 40 của thế kỷ XX tại bán đảo Mallorca, nước Tây Ban Nha. Ngày
nay, phong trào đã có mặt trên 60 quốc gia và trên 800 Giáo phận Công Giáo với
hơn 10 triệu người tham dự. Phong trào Cursillo theo đuổi một mục đích tối hậu
là:
“Làm
dậy men tinh thần Kitô giáo trong xã hội bằng tình bạn”
, với mong ước giúp cho xã hội được an bình, người người được hạnh phúc không
những ở đời này mà cả đời sau, khi có niềm tin tưởng tuyết đối vào Thiên Chúa là
Chúa Tình Yêu.
Đáp lại lời kêu gọi của Đức Giáo hoàng Piô XII trong bài diễn văn ngày 6-2-1940
tại Rôma, khi nghiên cứu môi trường trong cuộc nội chiến tàn khốc ở Tây Ban Nha
và chiến tranh thế giới vào thập niên 50 của thế kỷ XX, vị sáng lập phong trào,
ông Eduardo Bonnin (1917-2008) thấy rằng: sở dĩ con người trở nên hung hãn, nghi
kỵ, chống đối, chiến tranh, chém giết nhau là bởi vì con người đã phạm một tội
quá lớn:“con
người đã quay lưng lại với Thiên Chúa”.
Họ đã cố gắng loại trừ Thiên Chúa ra khỏi suy nghĩ, đời sống của họ (Xin xem
lịch sử phong Trào Cursillo). Họ đề cao con người, và chỉ tin vào con người và
khoa học mà thôi.
Tóm lại, theo cách nhìn của phong trào Cursillo con người loại trừ Thiên Chúa ra
khỏi cuộc sống là nguyên nhân chính làm cho thế giới bất ổn, con người không có
hạnh phúc đích thực.
Để cứu vãn con người và thế giới, Tâm tưởng thứ nhất của phong Trào Cursillo là
làm cách nào để mọi người nhận ra được Tình Yêu bao la vô bờ bến của Thiên Chúa.
Dù họ có nhận hay không nhận thì Thiên Chúa cũng đã dựng nên họ, chịu chết và
sống lại vì họ và Ngài vẫn tiếp tục ban muôn Hồng Ân trên họ, mà trung tâm là
Phép Thánh Thể. Chúa hứa ở với ta đến tận thế.
Tâm tưởng tiếp theo của phong trào là bằng chính đời sống chứng nhân gương mẫu
của người cursillista (Người Kitô hữu đã đựơc tham dự khóa 3 ngày của phong trào
Cursillo) sẽ giúp cho người bạn của mình hiểu ra, và tự nguyện trở về với Thiên
Chúa Tình Yêu.
Và tâm tưởng thứ ba của phong trào là tin tưởng và hy vọng vào lòng sốt mến,
nhiệt thành sẵn sàng của mỗi Cursillista. Sau khi được tuyển chọn để học khóa 3
ngày, trở về môi trường họ đang sống, họ sẽ là men, là muối trong môi trường
mình sống và “làm
dậy men tinh thần Kitô giáo trong xã hội bằng tình bạn”.
Họ đưa những người bạn thân thiết của họ từ chưa biết hoặc chống đối loại trừ
Thiên Chúa trở về với Thiên Chúa và nhận ra: chỉ có Chúa Kitô là giải pháp duy
nhất cứu được nhân loại khỏi sự phong tỏa của tội lỗi. Tội lỗi là nguyên nhân
sâu thẳm của mọi bất an, của hận thù, của đó kỵ, của chiến tranh. Họ, từng nhóm
năm ba người tạo ra cột sống Kitô giáo trong xã hội, họ luôn “một
tay nắm lấy Chúa, một tay nắm lấy anh em”
như phương chăm của phong trào đề ra.
Mới đây, ngày 30 tháng 04 năm 2015 tại Đại thính đường Phaolô 6 ở nội thành
Vatican, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã gặp gỡ, khích lệ và nhắn nhủ hơn 7000 anh
chị em cursillistas Châu Âu tham dự Đại Hội Ultreya lần thứ 3 “Ultreya có nghĩ
là đi ra ngoại biên, hãy đi xa hơn nữa! Luôn đi xa hơn!”. Ngài khích lệ: “Các
thành viên phong trào Cursillo trở thành những thừa sai đích thực, nâng đỡ đức
tin của tha nhân”.
Ngài nhắn nhủ:
“Tôi
khuyến khích các anh chị hãy “luôn đi xa hơn” trung thành với đoàn sủng của mình!
Hãy giữ cho lòng nhiệt thành, ngọn lửa của Chúa Thánh Linh luôn thúc đẩy các tín
hữu Chúa Kitô tìm đến những người ở xa, “ra khỏi cuộc sống tiện nghị thoải mái
của mình và có can đảm đi tới mọi khu ngoại ô đang cần đến ánh sáng Tin Mừng”.
Và Ngài còn nhắc nhở các Cursillistas cần thực hiện 14 mối thương người của đạo
Công Giáo. Đức Thánh Cha nói: “Tôi
sẽ đặt một câu hỏi cho anh chị em: anh chị em có thể đọc 7 việc thiện phần xác
và 7 việc thiện phần hồn không?”
“Thương xác bảy mối:
Thứ nhất: Cho kẻ đói ăn;Thứ hai: Cho kẻ khát uống;Thứ ba: Cho kẻ rách
rưới ăn mặc;Thứ bốn: Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc;Thứ năm: Cho khách đỗ
nhà;Thứ sáu: Chuộc kẻ làm tôi;Thứ bảy: Chôn xác kẻ chết” (Thương người có
14 mối, Đạo Công Giáo)
“Thương
linh hồn bảy mối:
Thứ nhất: Lấy lời lành mà khuyên người;Thứ hai: Mở dậy kẻ mê muội;Thứ ba:
Yên ủi kẻ âu lo;Thứ bốn: Răn bảo kẻ có tội;Thứ năm: Tha kẻ dể ta;Thứ sáu:
Nhịn kẻ mất lòng ta;Thứ bảy: Cầu cho kẻ sống và kẻ chết.” (Thương người có
14 mối đạo Công Giáo)
Rồi Ngài nói “Có
bài tập cho anh chị em về nhà làm: đi tìm và học các việc thiện. Tại sao? Để
mang các điều này ra thực hiện. Trong cộng đoàn Giáo Hội, tất cả đều nhằm mục
đích để người ta có thể sờ mó được lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa…”.
Thánh Phaolô đã viết cho các tín hữu Roma: “Quả
vậy, những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền
năng vĩnh cửu và thần khí của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí
khôn con người có thể thấy được qua những công trình của Người”
(Rm 1, 20). Lạy Chúa! Thế mà trên quê hương Việt Nam thân yêu của chúng con, nơi
chúng con được sinh ra, lớn lên và trưởng thành, nơi đây mới có khoảng 7% dân số
nhận ra và thờ phượng Chúa. Xin Chúa đoái thương đến môi trường sống trên quê
hương con, dân tộc con để có sự tương tác tích cực giữa con người và môi trương
hầu mọi người sớm nhận biết Chúa mà thờ phượng Người. Và mỗi người sẽ được hạnh
phúc đích thực, không những ở đời này, và cả đời sau khi nhận biết, tôn thờ và
tuân giữ hai điều Chúa đã dạy: mến Chúa và yêu ngươi.,.
Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh