Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Giáo Sĩ Việt Nam
TỘI SIMONIA (SIMONY) LÀ TỘI GÌ?

 

Sách Tông Đồ Công Vụ  kể chuyện một người phù thủy tên là Simon từng làm nhiều trò ảo thuật để mê hoặc  dân chúng về “quyền năng vĩ đại” của mình. Anh này cũng đến nghe các Tông Đồ giảng và được chịu phép rửa tội. Thấy các Tông Đồ đặt tay ban ơn Chúa Thánh Thần cho các tín hữu, anh rất  thích thú  nên đã ngỏ ý biếu tiền cho các Tông Đồ để xin đặc quyền ban ơn ấy, nhưng  đã bị Thánh Phêrô quở trách nặng nề  như sau: “tiền bạc của anh sẽ tiêu tan luôn với anh, vì anh tưởng có thể lấy tiền mà mua ân huệ của Thiên Chúa sao?” ( cf.Acts 8: 9-24). Nghe thế, anh phù thủy kia sợ hãi và van xin Phêrô và Gioan xin Chúa cho anh khỏi bị án phạt đó. 

Từ câu chuyện này, Giáo Hội đã dùng tên anh phù thủy Simon này để chỉ một loại tội gọi là “Tội mại thánh = simonia = simony) mà Giáo Luật đã minh nhiên ngăn cấm qua những điều khoản sau đây:      

c.149, triệt 3:  “Sự chỉ định chức vụ nhờ việc mại thánh đương nhiên vô giá tri.” 

c.848: “Khi ban các Bí Tích, thừa tác viên không được đòi thêm cái gì khác ngoài số tiền thù lao mà nhà chức trách có thẩm quyền đã ấn định; và phải cẩn thận đừng để những người nghèo không được lãnh nhận Bí Tích vì lý do túng thiếu.” 

c.947: “Trong vấn đề bổng lễ, phải xa tránh hoàn toàn mọi hình thức buôn bán hay thương mại.”  

Sách Giáo Lý Công Giáo (SGLCG)  cũng  đề cập đến tội này và ngăn cấm như sau :

 c.2121: “Tội buôn thần bán thánh (simony) là mua hoặc bán các thực tại thiêng liêng. Pháp sư Simon muốn mua quyền lực linh thiêng ông ta thấy tác động nơi các Tông đồ, nhưng Phêrô đã trả lời ông: “tiền bạc của ngươi hãy hủy hoại đi với ngươi, vì ngươi đã tưởng lấy tiền bạc mà mua được hồng ân của Thiên Chúa” (Cv 8, 20). Thánh Phêrô đã hành động đúng như lời Chúa Giêsu dạy: “các ngươi đã nhận được nhưng không thì cũng hãy ban tặng nhưng không” (Mt 10,8). 

Không thể chiếm lấy các lợi ích thiêng liêng làm của riêng mình và tùy ý sử dụng như kiểu một người sở hữu chủ hoặc một ông chủ, bởi vì các ơn ích thiêng liêng này bắt nguồn từ nơi Thiên Chúa. Chúng ta chỉ có thể nhận được từ nơi Thiên Chúa, cách nhưng không. 

c.2122: “Ngoài những khoản dâng cúng do thẩm quyền ấn định, thừa tác viên không được đòi hỏi gì cho việc ban các bí tích, và phải lo liệu để những người nghèo túng không mất ơn nhận lãnh các bí tích vì cảnh nghèo khó của họ. Thẩm quyền ấn định ‘các khoản dâng cúng’ này dựa trên nguyên tắc dân Kitô giáo phải cấp dưỡng cho các thừa tác viên của Giáo Hộingười thợ đáng được của nuôi thân” (Mt 10,10). 

Dựạ trên những điều  Giáo Hội dạy và ngăn cấm trên đây liên quan đến “tội mại  thánh” chúng ta cần hiểu rõ những áp dụng cụ thể để tránh gương xấu về loại tội này trong thực hành.

  

I- Lý Do Giáo Hội cho phép Giáo sĩ nhận bổng lễ (missarum = mass stipends) 

Trước hết, chúng ta cần hiểu rằng mặc  dù  việc phục vụ của giáo sĩ là bổn phận thiêng liêng chính yếu của Sứ vụ và Ơn gọi, nhưng về mặt tự nhiên giáo sĩ cũng là người như mọi người, nên phải có những  nhu cầu thiết yếu và chính đáng về  ăn, ở, thuốc men, quần áo, phương tiên di chuyển (đặc biệt là nhu cầu xe cộ cho các giáo sĩ làm mục vụ  ở Âu Mỹ, Úc và Canada). Và để thỏa mãn những  nhu cầu tối cần này, thì giáo sĩ phải được chăm sóc xứng đáng để an tâm chu toàn trách nhiệm thiêng liêng của mình. Vì thế, ở khắp nơi trong Giáo Hội – trừ Việtnam cho đến nay – giáo sĩ (Giám mục, linh mục) được trả lương tối thiểu (ngân quỹ của Địa phận hay giáo xứ) để giúp chi phí  cho những  nhu cầu thiết yếu về  ăn, ở, thuốc  men và phương tiện di chuyển.  

Khoản tiền  lương tối thiểu này nhiều ít khác nhau từ địa phận này sang địa phận khác, và từ quốc gia này đến quốc gia kia. (Riêng ở  Đức, chánh phủ trả lương cho các giáo sĩ của mọi Giáo Hội như trả lương cho công chức). Ngoài tiền lương tối thiểu trên, Giáo Hội còn cho phép giáo sĩ  được nhận thêm bổng lễ (missarum) cử hành theo ý của giáo dân xin. (Ở Mỹ, các linh mục phải khai và đóng thuế lợi tức cuối năm về tiền lương và những  bổng lễ, tiền dâng cúng nhận được, nếu có, trong các dịp rửa tội, chứng hôn và cử hành nghi thức an táng). 

Giáo Hội chăm lo và cho phép nhận bổng lễ dựa vào  lời  Chúa dạy sau đây:   

- “....Hãy ở lại nhà ấy và người ta cho ăn uống thức gì thì anh  em dùng thức đó vì thợ đáng được trả công” (Lk 10,7). 

- “Đi đường, đừng mang bao bì, đừng mặc hai áo, đừng đi giầy hay cầm gậy, vì thợ thì đáng được nuôi ăn” ( Mt 10,10). 

- “Anh  em không biết rằng người lo cho các thánh vụ thì được hưởng lộc Đền Thờ, và kẻ phục vụ bàn thờ thì cũng được chia phần của bàn thờ sao? Cũng vậy Chúa truyền cho những ai rao giảng Tin Mừng phải sống nhờ Tin Mừng” (1Cr 9: 13-14). 

- “Những kỳ mục thi hành chức vụ chủ tọa cách tốt đẹp, thì đáng được đãi ngộ gấp  đôi, nhất là những người vất vả phục vụ lời Chúa và giảng dạy. Quả vậy, Kinh Thánh có nói: Đừng bịt mõm con bò đang đạp luá, và làm thợ thì đáng được trả công” ( 1 Tim 5 : 17-18). 

Trên đây là tất cả nền tảng Kinh Thánh cho  việc chăm lo cho đời sống vật chất của giáo sĩ trong đó có sự cho phép nhận  tiền dâng cúng trong  các dịch vụ thánh được trao ban trong Giáo Hội, cụ thể như sau:

 

1- Bổng Lể (Missarum = mass stipends): các linh mục dâng Thánh lễ cầu nguyện theo ý chỉ (Intentio Missae = mass intentions) của người xin thì được hưởng một bổng lễ theo mức qui định của Tòa Giám Mục sở tại. Ở Mỹ, nói chung, thì mức bỗng lễ này là 5 dollars (có nơi qui định 10 đôla) cho đến nay.chắc chắn không có nơi nào Giáo Quyền cho phép nhận 20, 30 dollars cho một ý lễ. Qui định này áp dụng chung cho mọi giáo xứ, cộng đoàn tín hữu trong Địa phận, chứ  không chỉ riêng cho linh mục Mỹ ở các giáo xứ Mỹ. Các linh mục ViệtNam làm việc trong các giáo xứ hay cộng đoàn ViệtNam cũng phải theo chung qui định này, nghĩa là không ai được phép tự ý  miễn trừ cho mình  để có thể lấy bổng lễ gấp đôi, gấp ba tùy tiện.  

Tóm lại, linh mục không được phép tự ý  đòi hỏi người xin lễ trả cao hơn mức qui định trên của giáo quyền địa phuơng,  vì như vậy là trái với khoản Giáo luật số 848. Xin nhấn mạnh: linh mục không đượcc phép đòi bỗng lễ cao hơn mức Giáo quyền địa phương qui định và cho phép; thí dụ đòi 20, 50 hay 100dollars để dâng một Thánh Lễ hoặc chê ít tiền để từ chối dâng Lễ giáo dân xin. 

Tuy nhiên, nếu vì hảo tâm người xin Lễ tự ý dâng cúng số tiền cao hơn mức qui định thì linh mục được phép nhận mà không có lỗi gì. Người xin Lễ cần hiểu rõ điều này để đừng tự ý đưa nhiều tiền xin một Thánh Lễ rồi lại nghĩ tại linh mục muốn đòi như vậy. Thực ra không phải tất cả các  linh mục đều đòi hỏi như  thế trừ người nào có ý vi phạm giáo luật vì tham tiền cách trái phép mà thôi. 

Mỗi Thánh Lễ, linh mục chỉ được hưởng một bổng lễ thôi, và nếu có nhiều người xin Lễ thì linh mục không được phép gom tất cả ý lễ  lại để hưởng trọn mọi bổng lễ trong một Thánh lễ. Nếu vì nhu cầu mục vụ phải gom chung trong một thánh lễ ngày Chúa nhật  thì sau đó linh mục phải làm bù lại cho đủ các ý lễ với bổng lễ riêng như Giáo Luật số 948  qui định: Phải áp dụng từng Thánh lễ cho mỗi ý chỉ vì đó mà bổng lễ đã được dâng và nhận, cho dù bổng lễ đã nhận là bé nhỏ. 

Mặt khác, tuy  Giáo luật cho phép linh mục  nhận bổng lễ cho mỗi Thánh Lễ, nhưng nếu giáo dân nghèo túng không có khả năng dâng cúng thì linh mục cũng được khuyên nhủ phải dâng lễ cầu theo ý người xin dù không có bổng lễ. (cf.can.945, triệt 2), nghĩa là không bó buộc phải có bổng lễ mới dâng Thánh Lễ, vì Thánh Lễ là vô giá (invaluable) không thể mua được bằng tiền bạc hay của cải vật chất nào.

  

2- Ban Bí tích, chủ sự lễ cưới, đám tang, làm phép nhà, xe  cộ, tầu bè, nơi buôn bán v.v. 

Không có khoản  Giáo luật nào cho phép thừa tác viên có chức thánh (Giám mục, linh mục, phó tế) đòi tiền dâng cúng để ban một bí tích như Rửa tội, Xưng tội,  Thêm sức, Xức dầu bệnh nhân, truyền Chức Thánh,  hay chứng hôn hoặc  cử hành nghi thức an táng. Việc dâng cúng, nếu có,  là hoàn toàn do người lãnh nhận bí tích hay dịch vụ thánh tự nguyện (volunteer) dâng cho chứ không bị buộc phải  làm như vậy.Linh mục có bổn phận phải nói rõ điều này cho giáo dân hiểu để những người không có tiền nhiễu  bỏ ra xin lễ khỏi phải mạc cảm hay bất mãn vì nghèo túng nên bị thua thiệt. 

Nếu thừa tác viên đòi tiền cho bất cứ dịch vụ thánh nào thì đã hành động ngược với điều Giáo Hội cho phép và biến thừa tác vụ (ministry) của mình thành hoạt động thương mại trần tục, và hiển nhiên mắc  tội mại thánh = simonia”. 

Ngay cả  khi được yêu cầu làm  những  dịch vụ thánh khác như làm phép nhà, cơ sở buôn bán, xe, tầu v.v. Giáo sĩ cũng không được phép đòi trả công nơi người xin và chỉ  được phép nhận tiền hay tặng vật dâng cúng, nếu có,  hoàn toàn do lòng hảo tâm của người thụ hưởng tự ý dành cho mà thôi. Đây là điểm độc đáo khác biệt giữa  Giáo Hội Công Giáo  và nhiều giáo phái ngoài Công Giáo. Thí dụ, các linh mục Công Giáo không được phép đòi các đôi tân hôn hay tang chủ phải trả thù lao cho việc chứng hôn hay cử hành nghi thức an táng ở nhà quàn hay nghĩa trang, trong khi các dịch vụ này đòi hỏi phải được trả thù lao ở các giáo phái khác. Có thừa tác viên (ministers) của giáo phái  kia đã đòi phải trả 200 đollars cho mỗi nghi thức an táng họ cử hành (tiết lộ của nhân viên nhà quàn Mỹ ở Houston). 

Riêng về việc thu lệ phí của các giáo xứ trong việc chuẩn bị và cử hành các bí tích rửa tội, thêm sức và hôn phối, cần phân biệt mục đích như sau: 

Thông thường, nhiều giáo xứ ở  Mỹ có thu lệ phí (10, 15, hay 20  đôla) của mỗi gia đình có con em rửa tội. Lệ phí này giúp trả phí tổn mua nến và áo trắng để phát cho các trẻ được rửa tội. Nhưng nếu vì nghèo túng,  ai  không thể đóng được lệ phí này thì giáo xứ cũng không được phép từ chối cho lãnh bí tích, vì bí tích không bao giờ được ban vì tiền bạc cả. Mặt khác, việc dạy giáo lý cho cha mẹ có con em xin rửa tội là trách nhiệm mục vụ của cha xứ hay linh mục đặc trách. Không hề có luật nào cho phép đòi tiền trong dịch vụ này. Nếu người thụ hưởng tự ý dâng cúng tiền đãi ngộ  thì linh mục được phép nhận. Nhưng nếu đòi phải trả tiền mới cho học và cho lãnh bí tích thì đây lại  là hành vi mại thánh và rõ ràng muốn gắn tiền bạc vào điều kiện để lãnh nhận bí tích. 

Việc dạy giáo lý và chứng hôn cũng thế. Nếu làm vì tiền thì chắc chắn là sai trái. Tuy nhiên, cần phân biệt  tiền đòi ở đây khác với lệ phí giáo xứ thu để tập dượt (rehearsal) cho đôi tân hôn và cho  sử dụng nhà thờ để cử hành bí tích hôn phối hoặc lệ phí phải trả cho ca đoàn hát lễ cưới.

 

II- Tội Mại thánh = Simonia = Simony

Việc nhận bổng lễ theo ý và trong khuôn khổ  cho phép của Giáo Hội hoàn toàn khác với chủ ý đòi bổng lể để cử  hành Thánh lễ hay ban các Bí tích và làm các dịch vụ thánh khác. Do đó, trước hết trong nội bộ Giáo Hội, nếu ai để tiền bạc chi phối trong việc tiến cử người vào các chức vụ lãnh đạo Gíáo phận, Dòng tu,  trong việc tuyển chọn và truyền chức thánh, trong việc nhận và cho khấn Dòng… thì chắc chắn đã phạm tội simonia, làm gương xấu cho người khác, và làm ô nhục cho Giáo Hội. Những ai đã và  đang còn  âm thầm làm việc bất chính này thì hãy chuẩn bị để trả lời trước Chúa công thẳng về tội “buôn thần bán thánh” của mình.  Trong thực hành,  người   xin và người làm các dịch vụ thánh như xin Lễ, ban Bí tích, làm phép người hay đồ vật, cầu nguyện cho ai với mục đích lấy tiền thì đó là tội mại thánh đáng bị lên án trong Giáo Hội. 

Phải nói ngay ở đây  là tiền bạc hay tặng phẩm vật chất chỉ có giá trị giúp đỡ cho giáo sĩ có chức thánh thi hành nhiệm vụ thánh trong tinh thần  “người phục vụ Bàn Thánh thì được hưởng lộc bàn thờ” (1 Cr 9:13) như Thánh Phao lô dạy mà thôi, chứ hoàn toàn không hề có giá trị cứu rỗi hay lợi ích thiêng liêng nào cho ai, nhất là cho các linh hồn nơi luyện tội. Việc  cầu nguyện hay xin Lễ cầu cho các linh hồn là việc bác ái thiêng liêng cao quí rất  đáng khuyến khích trong Giáo Hội, nhưng đừng ai hiểu lầm rằng hễ bỏ ra nhiều tiền, xin nhiều lễ thì linh hồn mau được cứu rỗi. Tiền bạc chắn chắn không thể mua ơn Cứu độ và Nước Thiên Đàng, vì nếu có như vậy, thì người ta khỏi cần sống Đạo cho hẳn hoi, cứ việc ăn chơi thỏa thích  rồi tiết kiệm nhiều  tiền để khi chết nhờ người khác xin Lễ cho là xong.  

Ngược lại, chúng ta phải hiểu rằng Ơn Cứu Độ được ban trước hết do lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa và cậy nhờ  công nghiệp  cứu chuộc của Chúa Kitô  cộng thêm phần  đóng góp của cá nhân vào Ơn Cứu Độ này khi còn sống trên đời. Nhưng nếu không có lòng thương xót và công nghiệp của Chúa Cứu Thế Giêsu thì không ai được cứu  rỗi, cho dù người ta có bao nhiêu tiền của và xin bao nhiêu Thánh lễ, nhờ muôn ngàn người cầu nguyện cho. 

Ngược lại,  nếu chỉ dựa vào công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô thôi và không cộng tác chút nào vào công nghiệp này bằng nỗ lực cải thiện đời sống theo tinh thần Phúc Âm và thực hành những giới răn căn bản thì Chúa không thể cứu ai được, nói chi đến việc nhờ người khác xin Lễ cầu nguyện thay cho mình. Đây là căn bản tín lý và thần học về việc  cứu rỗi (salvation). 

Nhân  đây, tôi phải nói đến một việc rất sai trái đã và đang được làm ở một vài nơi liên quan đến việc xin Lễ cầu cho các linh hồn. Đó là việc một vài nhà Dòng, Tu Hội địa phương đã  đưa sáng kiến xin “Lễ đời đời”  cho các linh hồn và nhận tiền hội viên vào “Hội đời đời”  hay mua “hậu” cho những người còn sống. Tôi quả quyết việc làm này hoàn toàn sai thần học và tín lý Công giáo và mang tính mại thánh rất  trầm trọng.  

Thật vậy, trước hết,  làm sao  ta biết một linh hồn bị phạt đời đời mà còn cầu nguyện cho họ?  Theo giáo lý của Giáo Hội thì một người chết khi đang  mắc  tội trọng (mortal sin) không kịp  ăn năn thống hối và được  tha thứ  qua Bí Tích Hòa Giải thì phải chịu án  phạt đời đời  trong nơi gọi là hỏa ngục (hell) (cf GLCG, số. 1033-35). Mặt khác  theo tín điều các Thánh thông công, thì chỉ có sự hiệp thông ( communion) giữa các tín hữu còn sống  trong Giáo Hội lữ hành trên trần thế, với  các linh hồn thánh trong nơi luyện tội và các Thánh trên Thiên đàng.(cf. SGLCG, n. 962). Tuyệt đối không có sự hiệp thông nào với những người bị án phạt  đời đời (eternity) trong hỏa ngục. 

Vậy xin và làm Lễ đời đời để cầu nguyện cho ai? Các linh hồn thánh (holy souls) chỉ ở trong Luyện tội (Purgatory) có thời hạn chứ không ở đó vĩnh viễn đời  đời, nên không có lý do gì  để “cầu đời đời cho các linh hồn nơi chốn thanh luyện cuối cùng này”. 

Sau hết, làm sao người nhận tiền Lễ đời đời  có thể sống mãi  trên trần gian này để thi hành lời hứa cầu nguyện đời đời cho các linh hồn ấy? Như vậy,  ý niệm cầu nguyện đời đời là hoàn toàn  không có căn bản thần học và nền tảng tín lý nào. 

Việc gia nhập “Hội Ðời Ðời” hay “Mua Hậu” cho người còn sống cũng là chuyện dối trá, không có căn bản giáo lý, tín lý nào. Giáo Hội chỉ khuyến khích việc cầu nguyện cho các linh hồn nơi Luyện tội mà thôi, chứ không dạy mua “bảo hiểm đời sau” cho bất cứ ai còn sống  cũng như cầu cho những người trong hỏa ngục vì “họ đã bị xa lìa khỏi Thiên Chúa đời đời”  rồi (cf. SGLCG, n.1035).  

Đối với những người còn sống trên trần thế, thì chỉ có giới răn của Chúa và giáo lý của Giáo Hội dạy phải biết sống sao  cho phù hợp với những đòi hỏi của Tin Mừng Cứu Độ là mến Chúa, yêu người và cộng tác với Ơn thánh để được cứu rỗi, chứ không hề có giáo lý, tín lý, giáo luật nào  đòi hỏi  hay khuyên  nên khoán trắng việc  rỗi linh hồn của  mình cho người khác cầu nguyện thay cho qua cái gọi là Hội Đời Đời  hay Mua Hậu do ai chủ xướng với mục đích buôn thần bán thánh. Tôi quả quyết việc làm này là hoàn toàn sai trái và có tính chất mại thánh nghiêm trọng để lưu ý những ai vì không biết nên đã  tham gia vào việc dối trá này, nhất là nhắc cho những ai chủ xướng hãy chấm dứt  ngay dịch vụ mại thánh nghiêm trọng này, vì nó hoàn toàn đi ngược lại với đức tin và giáo lý Công Giáo tinh tuyền. 

Cũng trong phạm trù mại thánh”, không có giáo lý, giáo luật nào cho phép giáo sĩ từ chối ban Bí tích  cho ai vì lý do không ghi tên  nhập giáo xứ và đóng góp tiền hỗ trợ giáo  xứ. Càng không có giáo lý, giáo  luật nào cho phép từ chối cử hành nghi thức an táng nếu người chết hay tang gia không phải là giáo dân có ghi tên nhập  giáo xứ và đã  sử dụng phong bì dâng cúng tiền (collections envelope) cho nhà thờ. Đây là điểm khác biệt căn  bản giữa Giáo Hội Công giáo và nhiều giáo phái Tin lành. Cụ thể, giáo phái Baptist  khai trừ những thành viên nào đã  ghi tên gia nhập mà không đóng tiền dâng cúng đều đặn. Dĩ nhiên, họ sẽ không còn trách nhiệm gì đối với các thành viên đã bị khai trừ ra khỏi Cộng đoàn của họ.  

Ngược lại, Cha xứ Công giáo  không có quyền đe dọa ai không vào  giáo xứ, không dùng phong bì dâng cúng tiền,  thì không được lãnh nhận bí tích  và không được hưởng nghi thức an táng khi chết. Việc ghi tên nhập giáo xứ (registration for membership) chỉ có mục đích  mục vụ (pastoral care) mà thôi  chứ không phải là điều kiện để lãnh bí tích hay được cử hành nghi thức an táng  theo giáo luật. Xin nhớ kỹ điều này. 

Cũng xin nói rõ thêm  là việc xin Lễ cầu nguyện cho các linh hồn được khuyến khích trước hết để  nói lên sự hiệp thông giữa các linh hồn nơi luyện tội (Purgatory) và các tín hữu còn sống trong Giáo Hội lữ hành, cũng như với các thánh nam nữ trên Trời, như Tín điều các thánh thông công dạy. Ngoài ra, xin lễ cầu cho kẻ chết cũng nói lên lòng bác ái thiêng liêng giữa người còn sống và kẻ đã qua đời và chắc chắn  việc bác ái này có  ích lợi  cho các linh hồn  nơi luyện tội.  

Nhưng tuyệt đối không có vấn đề phải xin lể với bổng lễ to, phải được rao tên trước Cộng đoàn  hay phải kéo nhiều chuông, bật nhiều đèn thì  sẽ được hưởng ơn ích thiêng liêng nhiều  hơn là một thánh lễ làm âm thầm, không bỗng lễ, không rao, không chuông, đèn nến.  Nói khác đi, xin một Thánh lễ với bổng lễ 5 dollars  hay 50,000 dollars để cầu cho ai, hay cho việc gì  thì chỉ có giá trị về mặt trợ giúp vật chất cho Thừa tác viên cử hành chứ không có giá trị thiêng liêng nào cho người thụ hưởng lợi ích của Thánh lễ đó. Ơn thánh Chúa ban cho người thụ hưởng nhờ lời cầu nguyện của Giáo Hội là nhưng không (gratuitous) nghĩa là không lệ thuộc vào bổng lễ ít nhiều của người xin.  

Như vậy, đừng ai bao giờ nghĩ rằng xin lể hay xin cầu nguyện với bổng lễ to thì có hiệu lực thiêng liêng nhiều  hơn bổng lễ nhỏ hay không có bổng lễ. Nếu xin với ý này thì đó là “muốn dùng tiền của để mua ơn thánh”, để mua Nước Trời  và như vậy là mắc  tội “mại thánh” về phía  người xin. Ngược lại, về phía người làm (thừa tác viên) nếu gián tiếp hay trực tiếp gây cho giáo dân ngộ nhận rằng xin lễ xin cầu nguyện với bổng lễ to sẽ được nhiều ơn ích thiêng liêng hơn bổng lễ nhỏ thì cũng phạm tội mại thánh cách chắc chắn. Việc có rao tên, có kéo chuông, và đốt nhiều đèn nến không có giá trị thiêng liêng nào trước mặt Chúa mà chỉ có tác dụng phô trương trước mặt người đời  mà thôi. 

Cũng xin nói rõ là theo Lễ Qui phụng vụ của Giáo Hội, thì có ba bậc cử hành sau đây:  

1-  Lễ Trọng (solemnity): dành cho những dịp đặc biệt như Lễ Chúa Giáng Sinh, Lễ Phục Sinh, Lễ Chúa Ba Ngôi,…Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, Đức Mẹ Hồn Xác lên Trời, Lễ Thánh Giuse  19/3, Lể Kính hai Thánh Phêrô-Phaolô, Thánh Gioan Tẩy Giả (24/6),…Lễ Trọng có 3 bài đọc, có Kinh Tiền Tụng (Preface) riêng và phải đọc kinh Sáng Danh (Gloria), Kinh Tin Kinh (Creed). 

2-  Lễ Kính (Feast): dành để kính các Thánh quanh năm và một số dịp đặc biệt như kỷ niệm cung hiến Thánh Đường v. v.…Lễ kính chỉ có  bài đọc một và bài Phúc âm,  đọc Kinh Sáng danh, nhưng không đọc kinh Tin kính. 

3-  Lễ nhớ (memorial): trong mọi dịp ngoài hai trường hợp nói trên. Lể nhớ không phải đọc kinh Sáng Danh và kinh Tin Kính, và chỉ có 2 bài đọc. 

Sự phân chia này chỉ nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng hay đặc biệt của mỗi dịp cử hành chứ không nói lên giá trị khác biệt về phụng tự (cult, worship) vì mọi Thánh Lễ đều là Hy Tế của chính Chúa Giêsu và là hành động tạ ơn, ngợi khen Thiên Chúa Cha mà Giáo Hội nhờ Chúa Giêsu dâng lên Ngài qua việc cử hành Thánh Lể. Do đó, mọi Thánh Lễ đều có giá trị tuyệt đối và không thể đo lường được bằng tiền bạc. 

Ngoài ba trường hợp đặc biệt nêu trên, mọi lễ cầu nguyện theo ý người xin đều có chung một bậc là lễ nhớ, chứ không hề có bậc nhất, bậc nhì, bậc ba với giá tiền khác nhau như đã có sự lạm dụng ở nhiều nơi từ xưa đến nay. Việc tự ý phân chia bậc trong lễ cầu cho các linh hồn, kèm thêm nhửng thủ tục như rao tên người xin lể, kéo chuông trước sau Lễ, đốt thêm đèn nến trong nhà thờ chỉ là hình thức bề ngoài không có giá trị thiêng liêng nào. Tệ hại hơn nữa là nếu tạo ra những hình thức này để lấy thêm tiền và gây nhộ nhận về giá trị thiêng liêng thì đó chắc chắn là việc làm có nội dung mại thánh cần phải tránh. 

Tóm lại, Thừa tác viên không bao giờ được phép cử hành thánh lễ hay ban một bí tích nào để lấy tiền cả. Giáo dân cũng không được dùng tiền của để mua ơn thánh. Do đó phải lên án và xa tránh  mọi việc “buôn thần bán thánh” tức tội simonia trong việc cử hành các Bí Tích và mọi dịch vụ thánh khác trong Giáo Hội. 

 Việc dâng cúng tiền bạc hay tặng vật của giáo dân cho các giáo sĩ thi hành quyền thánh (sacra potestas) phải là hành động tự nguyện (voluntary) do lòng biết ơn và hảo tâm chứ không phải là việc bắt  buộc, một sự đổi chác có tính thương mại. Ai làm với mục đích này thì rõ rệt đã mắc tội mại thánh (simonia). 

Là Dân Chúa trong Giáo Hội, và với thiện chí xây dựng cho Giáo Hội ngày thêm tinh tuyền, thánh thiện, để phúc âm hóa hữu hiệu người khác, chúng ta cần lưu ý điều này để tránh  gương xấu có hại cho uy tín của Giáo Hội, của hàng giáo sĩ thừa tác đang xả thân  phục vụ cho giáo dân ở trong nước cũng như  hải ngoại. Chắc chắn đây chỉ là gương xấu  rất hạn chế chứ không phổ biến trong Giáo Hội vì đại đa số giáo sĩ ở khắp mọi nơi đều ý thức rõ gương xấu này và không hề dung túng hay lạm dụng  trong khi thi hành sứ vụ thánh của mình.

 

LM. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn (Houston, Texas)

 

Tác giả:  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!