Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

ThánhVịnhĐápCa (NgọcCẩn)

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bernard Nguyên-Đăng
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm BÙI NINH, Gp Bùi Chu
  Lm John Minh
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa BMT
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Ngọc Cẩn
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Học Hỏi Kinh Thánh
TRONG TIN MỪNG GIO-AN, BIỂU TƯỢNG ÁNH SÁNG DÙNG ĐỂ LÀM GÌ?

 

Bài viết tiếng Pháp:

Dans l’Évangile de Jean, à quoi sert le symbole de la lumière?

Tác giả: Giu-se LÊ MINH THÔNG, O.P.

Blog: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/

Email: josleminhthong@gmail.com

Ngày 11 tháng 01 năm 2014.

Nội dung

I. Dẫn nhập

II. Những đoạn văn liên quan đến ánh sáng

1) Tác giả viết trong Lời tựa
2) Diễn từ của Đức Giê-su
3) Đức Giê-su nói với người Do Thái về Gio-an
4) Đức Giê-su nói với những kẻ chống đối
5) Đức Giê-su nói với các môn đệ về anh mù
6) Trao đổi giữa Đức Giê-su và các môn đệ
7) Đức Giê-su nói với đám đông vào cuối sứ vụ
8) Đức Giê-su tóm kết sứ vụ công khai
 

II. Đồng hoá với ánh sáng
1) Tác giả đồng hoá Logos với ánh sáng (1,4.5.9)
a) Sự sống là ánh sáng (1,4)
b) Logos là ánh sáng (1,9)
2) Đức Giê-su là ánh sáng (8,12; 9,5; 12,46)
3) Gio-an Tẩy Giả và ánh sáng (1,7.8; 5,35)
a) Gio-an Tẩy Giả không phải là ánh sáng (1,8)
b) Gio-an Tẩy Giả là ánh sáng (5,35)

IV. Sứ vụ của ánh sáng
1) Ánh sáng đến chiếu soi thế gian
2) Mời gọi “đến với” và “tin” vào ánh sáng

V. Khước từ đến với ánh sáng

VI. Sự chiến thắng của ánh sáng trên bóng tối

VII. Kết luận

I. Dẫn nhập

Trong Tự Điển Tiếng Việt, 2007, mục từ “ánh sáng” được định nghĩa như sau: (1) Dạng vật chất do vật phát ra hoặc phản chiếu trên vật, nhờ đó mắt có thể cảm thụ mà nhìn thấy vật ấy (nghĩa đen). (2) Sự soi sáng, sự hướng dẫn (nghĩa bóng). Dựa trên nghĩa tổng quát này Tin Mừng Gio-an đã xây dựng đề tài ánh sáng như thế nào? Ánh sáng trong Tin Mừng nói đến ai và nói về điều gì? Danh từ “ánh sáng” trong Tin Mừng Gio-an có thể chứa đựng nhiều nghĩa không tìm thấy trong tự điển và không có trong những bản văn khác.

Trong bài viết này, chúng tôi tìm hiểu nghĩa của đề tài ánh sáng trong Tin Mừng Gio-an. Công việc này có thể kết luận rằng từ ngữ trong mỗi bản văn có nghĩa riêng của nó. Nghĩa của một từ được tạo nên bởi những tình tiết trong bản văn. Vì bản văn không ngừng được tạo ra nên nghĩa của từ ngữ trong bản văn cũng vô cùng phong phú và đa dạng. Bài viết này phân tích đề tài “ánh sáng” trong Tin Mừng Gio-an qua bốn mục: (1) Các nhân vật được đồng hoá với ánh sáng, (2) Sứ vụ của ánh sáng, (3) khước từ ánh sáng, (4) sự chiến thắng của ánh sáng trên bóng tối.

II. Những đoạn văn liên quan đến ánh sáng

Trong Tin Mừng Gio-an, xuất hiện 23 lần danh từ Hy Lạp “phôs” (ánh sáng), 2 lần động từ “phainô” (chiếu soi, toả sáng) ở 1,5; 5,35 và 1 lần động từ “phôtizô” (chiếu soi) ở 1,9. Tất cả 23 lần danh từ “phôs” (ánh sáng) xuất hiện trong 12 chương đầu sách Tin Mừng (Ga 1–12). Xem chi tiết về đề tài ánh sáng trong các mục từ: “ánh sáng (phôs)”, “toả sáng (phainô)”, “chiếu soi (phôtizô)” trong Tin Mừng Gio-an.

Tất cả những lần Tin Mừng Gio-an nói về đề tài ánh sáng (phôs, phainô, phôtizô) tìm thấy trong tám đoạn văn:

1) 1,1-11: Lời là ánh sáng thật

2) 3,18-21: Yêu mến bóng tối và ghét ánh sáng

3) 5,33-35: Gio-an Tẩy Giả là ánh sáng của ngọn đèn

4) 8,12: Đức Giê-su là ánh sáng của sự sống

5) 9,1-5: Đức Giê-su là ánh sáng của thế gian

6) 11,6-10: Ánh sáng của thế gian này

7) 12,35-36: Tin vào ánh sáng

8) 12,44-46: Đức Giê-su là ánh sáng đến thế gian
 

Dưới đây là bản văn của tám đoạn văn này, trích dẫn lấy trong Bản văn Gio-an, Tin Mừng và Ba thư, Hy Lạp – Việt.

1) Tác giả viết trong Lời tựa

1,1-11: “1 Lời có lúc khởi đầu, và Lời ở với Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa. 2 Người ở với Thiên Chúa lúc khởi đầu. 3 Nhờ Người, mọi sự được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành 4 ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng của loài người; 5 và ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không lấn át được ánh sáng. 6 Có một người được sai đến từ Thiên Chúa, tên ông là Gio-an. 7 Ông ấy đến làm chứng. Ông làm chứng về ánh sáng, để mọi người tin nhờ ông ấy. 8 Ông ấy không phải là ánh sáng, nhưng làm chứng về ánh sáng. 9 Người [Logos] là ánh sáng thật, ánh sáng chiếu soi mọi người, đến trong thế gian. 10 Người ở trong thế gian, thế gian được tạo thành nhờ Người và thế gian đã không nhận biết Người. 11 Người đã đến nhà mình, và những kẻ thuộc về Người đã không đón nhận Người.”

2) Diễn từ của Đức Giê-su

3,18-21: “18 Ai tin vào Người [Con Một Thiên Chúa] thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh Con Một Thiên Chúa. 19 Đây là án xử: Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã yêu mến bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc của họ thì xấu xa. 20 Vì mọi kẻ làm sự dữ thì ghét ánh sáng và không đến với ánh sáng để các việc của họ khỏi bị chê trách. 21 Nhưng kẻ làm sự thật thì đến với ánh sáng để các việc của người ấy được bày tỏ ra là đã được thực hiện trong Thiên Chúa.”

3) Đức Giê-su nói với người Do Thái về Gio-an

5,33-35: “33 Chính các ông đã cử người đến với Gio-an, và ông ấy đã làm chứng cho sự thật. 34 Phần Tôi, Tôi không nhận lời chứng do người phàm, nhưng Tôi nói những điều này để chính các ông được cứu. 35 Ông ấy là ngọn đèn được thắp lên và toả sáng, chính các ông đã muốn hoan hỷ một thời gian trong ánh sáng của ông ấy.”

4) Đức Giê-su nói với những kẻ chống đối

8,12: “Đức Giê-su lại nói với họ rằng: ‘Chính Tôi là ánh sáng của thế gian. Người theo Tôi, chắc chắn sẽ không bước đi trong bóng tối, nhưng sẽ có ánh sáng của sự sống.’”

5) Đức Giê-su nói với các môn đệ về anh mù

9,1-5: “1 Đi ngang qua, Người [Đức Giê-su] thấy một người mù từ thuở mới sinh. 2 Các môn đệ của Người hỏi Người rằng: ‘Thưa Ráp-bi, ai đã phạm tội, anh ta hay cha mẹ anh ta, để anh ta sinh ra đã bị mù?’ 3 Đức Giê-su trả lời: ‘Không phải anh ta đã phạm tội, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta, nhưng để công việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh ta. 4 Chúng ta phải làm công việc của Đấng đã sai Thầy khi còn là ngày; đêm đến thì không ai có thể làm việc được. 5 Bao lâu Thầy còn ở trong thế gian, Thầy là ánh sáng của thế gian.’”

6) Trao đổi giữa Đức Giê-su và các môn đệ

11,6-10: “6 Tuy nhiên, sau khi nghe rằng anh ấy [La-da-rô] bệnh, Người [Đức Giê-su] còn ở lại nơi Người đang ở thêm hai ngày. 7 Sau điều đó, Người nói với các môn đệ: ‘Chúng ta cùng trở lại Giu-đê.’ 8 Các môn đệ nói với Người: ‘Thưa Ráp-bi, mới đây những người Do Thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại đi đến đó sao?’ 9 Đức Giê-su trả lời: ‘Ban ngày chẳng có mười hai giờ sao? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng của thế gian này. 10 Còn ai đi ban đêm thì vấp ngã vì ánh sáng không ở trong người ấy.’”

7) Đức Giê-su nói với đám đông vào cuối sứ vụ

12,35-36: “35 Đức Giê-su nói với họ: ‘Còn một ít thời gian nữa, ánh sáng ở giữa các người. Hãy bước đi khi các người có ánh sáng, để bóng tối không bắt được các người. Ai đi trong bóng tối thì không biết mình đi đâu. 36 Khi các người có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng, để trở nên con cái ánh sáng.’ Đức Giê-su đã nói những điều đó rồi Người bỏ đi và lánh khỏi họ.”

8) Đức Giê-su tóm kết sứ vụ công khai

12,44-46: “44 Đức Giê-su đã lớn tiếng nói: “Người tin vào Tôi, không phải là tin vào Tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai Tôi, 45 và ai thấy Tôi là thấy Đấng đã sai Tôi. 46 Tôi là ánh sáng đến trong thế gian, để bất cứ ai tin vào Tôi thì không ở lại trong bóng tối.’”

III. Đồng hoá với ánh sáng

Tin Mừng Gio-an đồng hoá ba nhân vật với ánh sáng: Logos (Lời), Đức Giê-su và Gio-an Tẩy Giả. Trong Lời tựa sách Tin Mừng (1,1-18) Đức Giê-su là Lời (Logos) đã trở thành người phàm (1,14). Trong sứ vụ công khai, ba lần Đức Giê-su đồng hoá Người với ánh sáng (8,12; 9,5; 12,46).

1) Tác giả đồng hoá Logos với ánh sáng (1,4.5.9)

Trong Lời tựa sách Tin Mừng (1,1-18), tác giả đồng hoá ánh sáng với Logos (Lời) qua hai bước.

a) Sự sống là ánh sáng (1,4)

Trong bước thứ nhất, sự sống được đồng hoá với ánh sáng ở 1,4b: “Sự sống là ánh sáng của loài người.” Tuy nhiên ở 1,3b-4a, tác giả viết: “3b Điều đã được tạo thành 4a ở nơi Người [Logos] là sự sống.” Sự sống là biểu hiện của Logos, nên một cách mặc nhiên, Logos (Lời) đồng hoá với ánh sáng. Sự đồng hoá minh nhiên giữa Logos và ánh sáng tìm thấy ở 1,9. Cụm từ “Sự sống là ánh sáng của loài người” (1,4b) gợi đến kiểu nói “ánh sáng của sự sống” ở 8,12e.

b) Logos là ánh sáng (1,9)

Trong bước thứ hai, Logos (Lời) được đồng hoá với ánh sáng cách minh nhiên ở 1,9: “Người [Logos] là ánh sáng thật, ánh sáng chiếu soi mọi người, đến trong thế gian.” Sự đồng hoá với ánh sáng còn được diễn tả bằng những đặc tính của ánh sáng: “Ánh sáng của loài người” (1,4b), “ánh sáng thật” (1,9a), ánh sáng “đến trong thế gian” (1,9c), “chiếu soi mọi người” (1,9b) và “chiếu soi trong bóng tối” (1,5a).

2) Đức Giê-su là ánh sáng (8,12; 9,5; 12,46)

Ba lần trong Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su tự đồng hoá mình với ánh sáng (8,12; 9,5; 12,46) bằng kiểu nói đặc thù của Tin Mừng Gio-an: “Tôi là... (egô eimi)”. Xem phân tích chi tiết về “Đức Giê-su là ánh sáng” trong bài viết: “Ánh sáng và bóng tối trong Tin Mừng Gio-an.” Trong bối cảnh tranh luận với những kẻ chống đối, Đức Giê-su nói với họ ở 8,12: “Chính Tôi là ánh sáng của thế gian. Người theo Tôi, chắc chắn sẽ không bước đi trong bóng tối, nhưng sẽ có ánh sáng của sự sống.”

Ở 9,5, Đức Giê-su tuyên bố trước các môn đệ rằng: “Bao lâu Thầy còn ở trong thế gian, Thầy là ánh sáng của thế gian.” Lời này định nghĩa sứ vụ của Đức Giê-su trong thế gian như một ngày làm việc, vì Đức Giê-su nói ở 9,4: “Chúng ta phải làm công việc của Đấng đã sai Thầy khi còn là ngày; đêm đến thì không ai có thể làm việc được.” “Ngày” là lúc Đức Giê-su thực hiện sứ vụ công khai của Người, “đêm” là biểu tượng của sự chết.

Cuối ch. 12, trong những lời cuối cùng của Đức Giê-su để kết thúc sứ vụ công khai, Người lại khẳng định Người là ánh sáng và mời gọi độc giả tin vào Người. Đức Giê-su tuyên bố: “Tôi là ánh sáng đến trong thế gian, để bất cứ ai tin vào Tôi thì không ở lại trong bóng tối” (12,46).

3) Gio-an Tẩy Giả và ánh sáng (1,7.8; 5,35)

Có hai khẳng định xem ra trái ngược nhau liên quan đến Gio-an Tẩy Giả và ánh sáng. Ở 1,7.8, tác giả quả quyết Gio-an Tẩy Giả không phải là ánh sáng. Trong khi ở 5,35, Đức Giê-su lại nói Gio-an Tẩy Giả là ánh sáng. Chúng ta quan sát những câu trên để hiểu tương quan giữa Gio-an Tẩy Giả và ánh sáng trong mạch văn. Xem “Gio-an Tẩy Giả là ánh sáng (5,35)” trong bài viết: “Ở Ga 1,21 Gio-an Tẩy Giả không phải là Ê-li-a, nhưng ở Mt 17,13 Gio-an là Ê-li-a, mâu thuẫn hay bổ sung lẫn nhau?”

a) Gio-an Tẩy Giả không phải là ánh sáng (1,8)

Trong Tin Mừng Gio-an, Gio-an Tẩy Giả xuất hiện lần đầu tiên ở Lời tựa sách Tin Mừng (1,1-18). Hai đoạn văn nói về vai trò của Gio-an Tẩy Giả (1,6-8; 1,15), được chèn vào Lời tựa (1,1-18) cho thấy tầm quan trọng của nhân vật này qua vai trò làm chứng. Tuy nhiên, tác giả khẳng định cách rõ ràng: Gio-an Tẩy Giả không phải là ánh sáng (1,8a) và nhấn mạnh vai trò của Gio-an bằng cách lặp lại hai lần: Gio-an đến “làm chứng cho ánh sáng” (1,7.8b). Trong bối cảnh đoạn văn 1,1-9, việc khẳng định Gio-an Tẩy Giả không phải là ánh sáng là điều cần thiết bởi vì ánh sáng được đồng hoá với Logos–Giê-su.

b) Gio-an Tẩy Giả là ánh sáng (5,35)

Trong một bối cảnh khác, Gio-an Tẩy Giả được Đức Giê-su đồng hoá với ánh sáng (5,35). Khi những người Do Thái đang tìm cách giết Đức Giê-su (5,18), Người nói với họ diễn từ về “những việc của người Con” (5,19-29) và tiếp theo đó, Đức Giê-su liệt kê một loạt các lời chứng về Người (5,30-47). Trong đoạn văn này, Người nói đến lời chứng của Gio-an Tẩy Giả ở 5,33-35. Ở 5,35a, Đức Giê-su nói Gio-an là “ngọn đèn được thắp lên và toả sáng.” Động từ “toả sáng (phainô)” chỉ xuất hiện hai lần trong Tin Mừng Gio-an (1,5; 5,35a). Lần thứ nhất để nói về Logos (Lời), Lời là “ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không lấn át được ánh sáng” (1,5). Lần thứ hai nói về Gio-an Tẩy Giả, ông ấy là “ngọn đèn được thắp lên và toả sáng” (5,35a).

Ở 5,35b, Đức Giê-su nói với những người Do Thái về Gio-an Tẩy Giả: “Chính các ông đã muốn hoan hỷ một thời gian trong ánh sáng của ông ấy.” Dịch sát: “hoan hỷ một giờ (hôran) trong ánh sáng của ông ấy” (5,35b). Sứ vụ ngắn ngủi của Gio-an được ví như “ánh sáng của một giờ”, nghĩa là trong khoảng thời gian ngắn ngủi. Theo Tin Mừng Mát-thêu, Gio-an Tẩy Giả bị Hê-rô-đê bắt bỏ tù (Mt 14,3) và nhà vua đã ra lệnh chém đầu (Mt 14,9). Ở Ga 5,35b, động từ “hoan hỷ” (agalliaô) diễn tả sự kính trọng và sự đóng góp có ý nghĩa của Gio-an cho dân Ít-ra-en. Đức Giê-su đề cao vai trò của Gio-an bằng cách dùng biểu tượng ánh sáng để nói về ông. Gio-an Tẩy Giả là ngọn đèn toả sáng qua việc làm chứng cho “ánh sáng đích thực” là Đức Giê-su.

IV. Sứ vụ của ánh sáng

1) Ánh sáng đến chiếu soi thế gian

Tin Mừng Gio-an dùng nhiều cách diễn tả tương quan giữa ánh sáng và thế gian: Ánh sáng “đến trong thế gian” (1,9c; 3,19; 12,46a) để “chiếu soi mọi người” (1,9b). Ánh sáng được xác định là “ánh sáng của loài người” (1,4b), “ánh sáng của thế gian” (9,5b). Như thế, Logos–Giê-su là ánh sáng và có sứ vụ cụ thể trong thế gian. Đó là chiếu soi mọi người qua sự hiện diện và giáo huấn của Người.

2) Mời gọi “đến với” và “tin” vào ánh sáng

Đức Giê-su là ánh sáng, Người thi hành sứ vụ trong thế gian bằng lời nói và việc làm của Người. Người mời gọi thính giả và độc giả “làm sự thật” và “đến với ánh sáng” (3,21a), “đi theo” Người (8,12c) để “không bước đi trong bóng tối” (8,12d) và “có ánh sáng của sự sống” (8,12e). Đức Giê-su đề nghị với đám đông bước đi trong ánh sáng khi ánh sáng còn ở giữa họ (12,35a). Người mời gọi họ “tin vào ánh sáng” để “trở nên con cái ánh sáng” (12,36a). Như thế, người tin vào Đức Giê-su thì không ở lại trong bóng tối (12,46b). Ở 11,9-10, Đức Giê-su nói đến những ai “thấy ánh sáng của thế gian này” thì không vấp ngã, còn những ai “ánh sáng không ở trong người ấy” thì vấp ngã. Nghĩa là “thấy Đức Giê-su” và “có Đức Giê-su ở với mình” thì sẽ vững vàng tiến bước trong ánh sáng của sự sống.

Tóm lại, với nhiều động từ liên kết với ánh sáng, Đức Giê-su mời gọi thính giả và độc giả hãy...

- ĐẾN VỚI ánh sáng (3,21b)

- ĐI THEO ánh sáng (8,12c)

- CÓ ánh sáng của sự sống (8,12e)

- THẤY ánh sáng của thế gian này (11,9e)

- Ở trong ánh sáng (11,10c)

- BƯỚC ĐI trong ánh sáng (12,35b)

- TIN vào ánh sáng (12,36b.46b)

- TRỞ THÀNH con cái ánh sáng (12,36c)

- KHÔNG BƯỚC ĐI trong bóng tối (8,12c)

- KHÔNG Ở LẠI trong bóng tối (12,46d).

V. Khước từ đến với ánh sáng

Theo Tin Mừng Gio-an, những ai từ chối mời gọi của Đức Giê-su trên đây là tự mình lựa chọn “bước đi trong bóng tối” (8,12c) và “ở lại trong bóng tối” (12,46d). Việc khước từ ánh sáng đã được nói đến trong Lời tựa (1,1-18). Logos–lumière ở trong thế gian nhưng thế gian đã không nhận biết Người (1,10). “Người đã đến nhà mình, và những kẻ thuộc về Người đã không đón nhận Người” (1,11).

Trong sứ vụ công khai của Đức Giê-su, việc từ chối đến với ánh sáng tỏ lộ cách rõ ràng nơi những kẻ chống đối. Ở 3,18, Đức Giê-su nói đến sự “tự mình xét xử (auto jugement).” Điều này được áp dụng cho những ai không tin vào ánh sáng. Đức Giê-su tuyên bố ở 3,18: “Ai tin vào Người thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh Con Một Thiên Chúa.” Đức Giê-su cho biết lý do tại sao người ta khước từ ánh sáng trong câu tiếp theo 3,19: “Đây là án xử: Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã yêu mến bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc của họ thì xấu xa.”

Trong Tin Mừng Gio-an, kiểu nói: “Các việc xấu xa” có nghĩa thần học. “Việc xấu xa” trong Tin Mừng Gio-an nói đến hành động thù nghịch và ý định tìm giết Đức Giê-su (5,18; 8,37.40). Hành động này là quyết định khước từ ánh sáng ở cấp độ cao nhất. Đó là những người đã lựa chọn “yêu mến bóng tối” (3,19) và “ghét ánh sáng” (3,20). Đức Giê-su cho biết ở 3,20: “Mọi kẻ làm sự dữ thì ghét ánh sáng và không đến với ánh sáng để các việc của họ khỏi bị chê trách.”

Lời tuyên bố của Đức Giê-su về sự khước từ tin vào Người (3,18-19) được thực hiện qua sự thù ghét của thế gian, được nói đến trong đoạn văn 15,18–16,4a. Thực vậy, thế gian “yêu thích” những gì thuộc về nó (15,19) và “ghét” Chúa Cha, “ghét” Đức Giê-su (15,23.24) và “ghét” các môn đệ của Người (15,18.19). Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 15,18: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước.” Ở 7,1-7, những người Do Thái ghét Đức Giê-su và tìm cách làm hại Người. Còn các thượng tế, và những người Pha-ri-sêu thì tìm cách bắt Người (7,45-46). Vì thế những kẻ chống đối Đức Giê-su và bách hại các môn đệ trong Tin Mừng Gio-an là những người Do Thái, những người Pha-ri-sêu và các thượng tế. Họ là những người từ chối đến với ánh sáng, từ chối tin vào ánh sáng và tìm cách dập tắt ánh sáng.

VI. Sự chiến thắng của ánh sáng trên bóng tối

Khi tìm giết Đức Giê-su, những kẻ chống đối đã “yêu mến bóng tối” và thuộc về bóng tối. Cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối trong bối cảnh vụ kiện là đề tài quan trọng trong Tin Mừng Gio-an. Chiến thắng của ánh sáng trên bóng tối đã nói đến ngay trong Lời tựa sách Tin Mừng: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không lấn át được ánh sáng” (1,5). Tuy nhiên sự chiến thắng này được trình bày cách nghịch lý. Thực vậy, trong Tin Mừng Gio-an “ánh sáng – Giê-su” sẽ không còn chiếu sáng nữa. Đức Giê-su nói với đám đông ở cuối sứ vụ công khai: “35 Còn một ít thời gian nữa, ánh sáng ở giữa các người. Hãy bước đi khi các người có ánh sáng, để bóng tối không bắt được các người. Ai đi trong bóng tối thì không biết mình đi đâu. 36 Khi các người có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng, để trở nên con cái ánh sáng” (12,35-36). Như vậy, cuối ch. 12, “ánh sáng–Giê-su” chỉ còn một ít thời gian nữa thôi. Những kẻ chống đối và khước từ ánh sáng sẽ thành công trong việc loại trừ ánh sáng khỏi thế gian. “Đức Giê-su–ánh sáng” sẽ chết trên thập giá. Vậy phải hiểu sự chiến thắng của ánh sáng trên bóng tối trong Tin Mừng Gio-an theo nghĩa nào?

Trong suốt sứ vụ công khai của Đức Giê-su, những kẻ chống đối Người đã nhiều lần muốn bắt “Đức Giê-su – ánh sáng” nhưng họ không thực hiện được. Người thuật chuyện cho biết ở 7,30: “Bấy giờ họ tìm bắt Người, nhưng chẳng có ai tra tay trên Người, vì giờ của Người chưa đến.” Cuối sứ vụ, Đức Giê-su nói với những người Pha-ri-sêu ở 10,17-18: “17 Vì điều này mà Cha yêu mến Tôi: Tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại nó. 18 Không ai lấy nó khỏi Tôi, nhưng chính Tôi tự mình hy sinh nó. Tôi có quyền hy sinh nó và Tôi có quyền lấy lại nó. Tôi đã nhận mệnh lệnh này từ nơi Cha của Tôi.” Lời mặc khải này cho thấy, Đức Giê-su tự hiến dâng mạng sống mình vì yêu mến Cha của Người và vì yêu mến các môn đệ cho đến cùng (cf. 13,1; 14,31). Không một ai có thế lấy đi mạng sống của Người được.

Quyền năng của Đức Giê-su trên đây tỏ lộ trong lúc các thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pha-ri-sêu đến bắt Người trong thửa vườn bên kia thung lũng Kít-rôn (18,1-3). Người thuật chuyện kể ở 18,4-6: “4 Đức Giê-su biết mọi sự sắp xảy đến cho mình, Người đi ra và nói với họ: ‘Các anh tìm ai?’ 5 Họ trả lời Người: ‘Giê-su người Na-da-rét.’ Người nói với họ: ‘Chính là Tôi.’ Giu-đa, kẻ nộp Người, đứng với họ. 6 Khi Người vừa nói: ‘Chính là Tôi’ họ lùi lại và ngã xuống đất.” Chỉ với hai chữ Đức Giê-su nói ra: “Chính là Tôi (egô eimi)” mà những kẻ đến bắt đã “lùi lại và ngã xuống đất” (18,6). Tương quan lực lượng như thế thì họ không thể tra tay bắt Đức Giê-su được. Sở dĩ việc “cơ đội và viên chỉ huy cùng các thuộc hạ của những người Do Thái bắt Đức Giê-su và trói Người lại” (18,12) đã xảy ra là vì chính Đức Giê-su để cho họ làm như thế. Câu chuyện cho thấy rõ ràng quyền năng của ánh sáng mạnh mẽ hơn quyền lực của bóng tối.

Trong viễn cảnh này, cái chết của Đức Giê-su trở thành sự kết án cho thủ lãnh của thế gian này. Đức Giê-su cho các môn đệ biết về hoạt động của Đấng Pa-rác-lê ở 16,8-11: “8 Khi Đấng ấy đến [Đấng Pa-rác-lê], Người sẽ chứng minh thế gian sai lầm về tội, về sự công chính và về sự xét xử. 9 Về tội: Họ không tin vào Thầy. 10 Về sự công chính: Thầy đi về với Cha, và anh em không còn thấy Thầy. 11 Về sự xét xử: Thủ lãnh của thế gian này đã bị xét xử.” Theo Tin Mừng Gio-an, biến cố Thương Khó của Đức Giê-su được hiểu là biến cố Người về với Cha của Người (16,10b) và qua cuộc Thương Khó, thủ lãnh thế gian này đã bị xét xử (16,11b). Đồng thời Đức Giê-su đã chiến thắng thế gian như người đã khích lệ các môn đệ ở 16,33: “Những điều này, Thầy nói với anh em để trong Thầy, anh em có sự bình an. Trong thế gian, anh em có sự khốn khó, nhưng anh em hãy can đảm, chính Thầy đã thắng thế gian.”

Tóm lại, theo thần học Gio-an, ánh sáng đã chiến thắng bóng tối cách nghịch lý. Ánh sáng đã ngự trị trên bóng tối ngay khi ánh sáng bị giập tắt. Trên bình diện trần thế và lịch sử, ánh sáng đã tắt với cái chết của Đức Giê-su trên thập giá. Nhưng trên bình diện mặc khải và thần học, sự chết của Đức Giê-su–ánh sáng là biến cố tôn vinh. Qua sự chết, Đức Giê-su về với Cha của Người, Người được tôn vinh trong vinh quang của Chúa Cha và ánh sáng đã mãi mãi chiến thắng bóng tối.

VII. Kết luận

Những quan sát bản văn trên cho thấy sự độc đáo của Tin Mừng Gio-an trong cách xây dựng đề tài “ánh sáng”. Đó là sự phong phú về ý nghĩa của một đề tài trong một bản văn cụ thể: Tin Mừng Gio-an. Nhiều nhân vật được đồng hoá với ánh sáng: Logos (Lời), Đức Giê-su, Gio-an Tẩy Giả. Sự đồng hoá này cho phép hoán chuyển lẫn nhau giữa Đức Giê-su và ánh sáng. Sứ vụ của Đức Giê-su là sứ vụ của ánh sáng, vì Đức Giê-su là ánh sáng. Ánh sáng đến thế gian để chiếu soi nhân loại. Sự vụ này quy vào lời mời gọi trọng yếu: “Tin” vào Đức Giê-su và “tin” vào giáo huấn của Người để có sự sống đời đời, ngay từ bây giờ, ngay trong cuộc sống trần thế này. Lời mời gọi này được diễn tả bằng nhiều động từ: “Thấy”, “đến với”, “đi theo” và “có” ánh sáng; “ở trong” ánh sáng, “bước đi” trong ánh sáng, “tin vào” ánh sáng và “trở thành” con cái ánh sáng. Lời đề nghị “đến với ánh sáng” là để con người thoát ra khỏi bóng tối, nghĩa là để “không bước đi” và “không ở lại” trong bóng tối.

Đức Giê-su mời gọi thính giả và độc giả đến với ánh sáng. Người không áp đặt hay làm áp lực để buộc người ta đến với ánh sáng. Vì thế, có những người tin vào Đức Giê-su, nhưng cũng có những kẻ từ chối tin vào Người. Trong bối cảnh vụ kiện giữa “ánh sáng” và “bóng tối”, sự khước từ ánh sáng ở cấp độ cao nhất diễn tả bằng lựa chọn “yêu mến bóng tối” và “ghét ánh sáng” (3,19-20). Khi tìm giết Đức Giê-su, những kẻ chống đối đã thuộc về bóng tối, thuộc về quỷ (8,44). Họ đã thành công trong việc loại trừ ánh sáng ra khỏi thế gian. Đức Giê-su là ánh sáng, nhưng đã chết trên thập giá. Tuy nhiên, Đức Giê-su mặc khải cho độc giả biết sự thật sâu xa: Một cách nghịch lý, ánh sáng đã mãi mãi chiến thắng bóng tối. Ánh sáng đã được tôn dương và tôn vinh trong chính khi ánh sáng tắt đi trên thập giá. Đó cũng là lúc mà thủ lãnh của thế gian này bị kết án và hoàn toàn thất bại (16,11).

Cách dùng đa dạng, ý nghĩa phong phú của đề tài ánh sáng cho thấy sự độc đáo của Tin Mừng Gio-an. Dùng ánh sáng để diễn tả những điều trên đây thì chỉ có trong Tin Mừng Gio-an. Mỗi sách Tin Mừng sử dụng từ ngữ và xây dựng đề tài theo cách thức riêng, nên nghĩa của các từ ngữ cũng khác nhau trong những bản văn khác nhau. Có thể nói, tra tự điển để biết nghĩa của một từ trong một bản văn nào đó là chưa đủ để hiểu hết ý nghĩa của từ ấy trong bản văn cụ thể. Cần đọc chính bản văn để xem nghĩa của từ ngữ ấy được xây dựng như thế nào trong bản văn đó. Ý nghĩa đề tài ánh sáng như trên không tìm thấy trong các tự điển đại cương. Cần đọc Tin Mừng để hiểu ý nghĩa của từ ngữ trong bản văn Tin Mừng. Bài viết cho thấy đề tài ánh sáng trong Tin Mừng Gio-an là một trong những đóng đóp quý báu và độc đáo cho cuộc đời của độc giả và cho nền thần học chung của Tân Ước./.

Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2014/01/trong-tin-mung-gio-bieu-tuong-anh-sang.html

****

Xin hân hạnh giới thiệu Tác phẩm "Bản văn Gioan Tin Mừng và Ba Thư" được trình bày song ngữ Hy Lạp - Việt hết sức công phu và giá trị cho tất cả những ai yêu mến Lới Chúa và muốn được no say với Lời Hằng Sống. Sách có bán tại các nhà sách Công Giáo.

Xin chân thành cám ơn tác giả Lm. Giuse Lê Minh Thông, OP. Tiến sĩ Thần học Kinh Thánh đã công hiến cho độc giả CGVN những tác phẩm vô cùng quí báu cho việc học hỏi Thánh Kinh tại Việt Nam ngày thêm phong phú.

BBT CGVN

Bìa trước: Nhà Thờ thánh Tê-pha-nô, tu viện anh em Đa Minh.

Bìa sau: Hành lang chính tu viện thánh Tê-pha-nô, dòng Đa Minh.


 





Tác giả:  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!