Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Tư Liệu Giáo Hội
BẢN TÓM TẮT THÔNG ĐIỆP ÁNH SÁNG ĐỨC TIN - LUMEN  FIDEI

 

Chuyển ngữ: Nguyễn Tiến Cảnh 

Ánh Sáng Đức Tin là thông điệp đầu tiên của Đức Phanxico. Bản thông điệp gồm có 4 chương cộng với phần mở đầu và phần kết thúc. Đức Thánh Cha nói rằng tông thư này là thông điệp bổ túc cho hai thông điệp về Bác Ái và Hy Vọng của Đức Biển Đức XVI, ngài chỉ tiếp nối “công trình” đã được thực hiện và hầu như đã gần hoàn thành bởi vị tiền nhiệm. Sau này ngài chỉ đóng góp chút ít vào bản nháp ban đầu hiện có mà thôi.

Đây là bản chuyển ngữ theo Bản Tóm Tắt chính thức của Vatican: Ánh Sáng Đức Tin / Lumen Fidei ra mắt ngày 5-7-2013 đã được Đức Phanxico ký ngày 29-6- 2013 (Zenit.org)

*********

 PHẦN MỞ ĐẦU ( Các số 1-7)

Phần mở đầu của Ánh Sáng Đức Tin là phần giới thiệu những chủ đề căn bản của tập tài liệu. Trước tiên là nhắc lại những tính chất đặc thù của Ánh Sáng Đức Tin, có thể làm nổi bật sự hiện hữu của tất cả mọi con người hầu giúp họ phân biệt tốt với xấu, đặc biệt trong thời đại tân kỳ này là nơi mà niềm tin đối ngịch với tìm hiểu và, đức tin bị coi như là một ảo tưởng, một khoảng trống ngăn cản tự do của con người. Thứ đến, Ánh Sáng Đức Tin

-đặc biệt năm nay là Năm Đức Tin và cũng là kỷ niệm 50 năm Công Đồng Vatican II, một Công Đồng về Đức Tin- có chủ đích làm hồi phục quan niệm về chiều rộng của chân trời đức tin, mở rộng để nó có thể được chấp nhận trong hiệp nhất và tinh tuyền. Thực vậy, đức tin không phải là cái gì tự nhiên mà có, mà là tặng vật Chúa ban để được nuôi dưỡng và tăng trưởng. “Ai tin thì thấy” -Đức Thánh Cha (ĐTC) viết- bởi vì ánh sáng đức tin đến từ Thiên Chúa và có thể chiếu sáng mọi mặt của con người hiện hữu: Nó khởi đầu từ quá khứ, từ ký ức về đời sống của chúa Giêsu, nhưng cũng đến từ tương lai để nó mở tung ra những chân trời rộng lớn.

 

CHƯƠNG MỘT (Các số 8-22)

Chúng ta tin vào tình yêu (1Ga 4:16). 

Nhớ lại hình ảnh Abraham trong kinh Thánh, trong chương này, đức tin  được cắt nghĩa như là “lắng nghe” lời Chúa, lời “kêu gọi” hãy ra khỏi con người cô lập của mình để tự bước vào một nếp sống mới và, “hứa hẹn” về tương lai, nó làm cho bước đường liên tục xuyên suốt thời gian của chúng ta trở thành khả dĩ và liên kết chặt chẽ với niềm hy vọng. Đức tin cũng hàm ý “tình cha con”, bởi vì Thiên Chúa là đấng kêu gọi chúng ta không phải là người xa lạ, nhưng là Chúa, là người cha, là nguồn sống của thiện hảo tức nguồn gốc và sức sinh tồn của mọi vật. Trong lịch sử Israel, đức tin thì đối nghịch với thờ ngẫu tượng, ở đó ước vọng con người bị bể nát ra thành nhiều mảnh và “cuộc sống của họ bị phân tán ra muôn vàn thời khắc rời rạc”, không để cho họ có thời giờ chu toàn lời hứa. Trái lại, đức tin là tin tưởng vào lòng yêu thương nhân hậu của Thiên Chúa; nó luôn luôn chào đón và tha thứ, uốn nắn cho ngay thẳng “những đường cong queo của cuộc đời lịch sử của chúng ta”; nó là ước muốn tự mình cải đổi môt lần nữa nhờ “tặng phẩm Thiên Chúa ban nhưng không kêu gọi phải khiêm tốn và can đảm để tin tưởng và phó thác; nó khả dĩ giúp chúng ta nhìn thấy con đường sáng dẫn đưa tới gặp gỡ Thiên Chúa và nhân loại, lịch sử ơn cứu độ” (s. 14). Ở đây đức tin có cái gì “nghịch lý”: liên tục quay về với Chúa giúp con người được bền vững, giải phóng chúng ta khỏi tà thần. 

Bây giờ Ánh Sáng Đức Tin hướng về hình ảnh chúa Giêsu, đấng trung gian mở cho chúng ta đến một sự thật lớn lao hơn chúng ta, là sự biểu lộ của tình yêu Thiên Chúa là nền tảng của đức tin: “Khi chiêm ngưỡng cái chết của  Chúa Giêsu…, đức tin của chúng ta trở nên mạnh mẽ hơn”, vì trong đó Người thể hiện tình yêu không hề lay chuyển của Người đối với loài người. Sự phục sinh của Người làm cho chúa Kito thành “nhân chứng đáng tin cậy”,“xứng đáng đức tin”, qua Người, Thiên Chúa hành động thực sự xuyên suốt cả lịch sử, xác định số phận sau cùng của nó. Nhưng có một “khía cạnh quyết định” của đức tin nơi chúa Giêsu là: “tham gia vào cách nhìn của Chúa”. Thực vậy, đức tin không phải chỉ nhìn tới chúa Giesu mà còn từ quan điểm của Người, với con mắt của Người. Đức thánh cha dùng loại suy để cắt nghĩa, cũng giống như trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, là chúng ta đặt tin tưởng của chúng ta nơi “những người hiểu biết nhiều hơn chúng ta”-như kiến trúc sư, dược sĩ, luật sư- cũng vậy đối với đức tin, chúng ta cần người đáng tin cẩn và chuyên môn “nơi Thiên Chúa quan tâm” và chúa Giêsu là “người làm cho chúng ta nhận biết Thiên Chúa”. Do đó chúng ta tin chúa Giêsu khi chúng ta chấp nhận Lời của Người, chúng ta tin vào chúa Giêsu khi chúng ta chào đón Người trong cuộc sống của chúng ta và phó thác chúng ta cho Người. Thực vậy, việc chúa nhập thể bảo đảm rằng đức tin không tách rời chúng ta khỏi thực tế, mà thực ra là giúp chúng ta nắm chặt lấy ý nghĩa sâu xa nhất của nó. Nhờ có đức tin, con người tự cứu mình khi họ tự mở rộng mình cho một Tình Yêu đã có từ trước và biến đổi họ từ bên trong. Đây là hành động thực sự của Chúa Thánh Thần: “Người Kito hữu có thể nhìn bằng con mắt của chúa Giêsu và dự phần vào ý nghĩ của Người, cách sắp đặt con cái của Người, bởi vì họ can dự vào tình yêu của họ là chúa Thánh Linh” (s.21). Không có sự hiện diện của chúa Thánh Thần thì không tài nào có thể tuyên xưng Chúa được. Do đó “đời sống của người tín hữu trở thành sự hiện hữu của Giáo Hội”, bởi vì đức tin được tuyên xưng ngay trong cơ thể của Giáo Hội như là “sự hiệp thông cụ thể của các tín hữu”. Người Kitô hữu là “những người” không bị mất nhân tính của mình vì khi họ phục vụ tha nhân thì họ lại quay trở lại với chính họ. Vậy thì “đức tin không phải là một vấn đề riêng tư, một quan niệm hoàn toàn có tính cách cá nhân hay một ý kiến riêng biệt” mà đúng ra là “nó đến do nghe thấy và tìm cách diễn tả bằng lời  để tuyên xưng”.

 

CHƯƠNG HAI (Các số 23-36)

Không tin thì không hiểu (Is 7:9). 

Đức thánh cha cho thấy có sự liên kết chặt chẽ giữa đức tin và sự thật, sự thật đáng tin cậy về Thiên Chúa, sự hiện diện của Người theo đức tin xuyên suốt giòng lịch sử. “Đức tin mà không thật thì không cứu rỗi -ĐTC viết- Nó còn là một câu chuyện đẹp, phản ảnh ước muốn sâu xa của chúng ta về hạnh phúc”. Và bây giờ, vì có sự “khủng khoảng về sự thật ở thời đại chúng ta”, nên điều cần thiết hơn bao giờ hết từ trước đến giờ là phải nhắc lại mối liên kết này, là nền văn hóa đương thời có khuynh hướng chỉ chấp nhận sự thật kỹ thuật, điều mà con người đang điều hành để thiết lập và đo lường bằng khoa học, sự thật có “tác dụng” hay đúng ra sự thật đơn độc chỉ có giá trị đối với từng cá nhân mà không phụng sự cho công ích. Ngày nay, chúng ta đã nghi ngờ “chính Sự Thật, một sự thật có thể giảng giải một cách dễ hiểu về đời sống của chúng ta ở phương diện cá nhân và xã hội”, bởi vì nó đã được kết hợp một cách sai lầm với những sự thật mà những hình thái của chủ nghĩa toàn trị ở thế kỷ 20 đã đặt ra. Tuy nhiên, việc này đã dẫn đến tình trạng “mất trí nhớ tập thể trong thế giới đương đại của chúng ta” là quên mất cái vấn nại về sự thật này và về nguồn gốc của mọi sự, tức vấn nại về Thiên Chúa, làm lợi cho chủ thuyết tương đối và hoảng sợ chủ nghĩa cuồng tín.  Ánh sáng đức tin nhấn mạnh sự liên kết giữa đức tin và tình yêu và giúp ta hiểu vấn đề không phải vì “súc cảm mau qua”, mà vì tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa có thể biến đổi chúng ta từ bên trong và ban cho chúng ta nhãn quan mới để nhìn rõ thực tế. Vì vậy, nếu đức tin được liên kết với sự thật và tình yêu, thì lúc đó “tình yêu và sự thật không thể xa lìa nhau được”, bởi vì chỉ có tình yêu thực mới đứng vững trước thử thách của thời gian và trở thành nguồn mạch của hiểu biết. Khi mà sự hiểu biết về đức tin được phát sinh ra do tình yêu trung thành với Thiên Chúa thì “sự thật và sự trung tín sẽ sánh đôi với nhau”. Sự thật khai mở đức tin là sự thật đặt trọng tâm vào việc tiếp cận với chúa Kito nhập thể, Người -đến giữa chúng ta- đã kích động chúng ta và ban cho chúng ta ân sủng của Người để cải đổi tâm hồn chúng ta. 

Ở điểm này, ĐTC bắt đầu suy tư rộng ra về “cuộc  đàm thoại giữa đức tin và lý trí”, về sự thật trong thế giới ngày nay, trong đó đối thoại thường bị thu hẹp lại thành “một xác thực có tính chủ quan”, vì sự thật bình thường hay gây cảm giác sợ hãi, và thường được định tính là những đòi hỏi cố chấp của chủ nghĩa toàn trị. Thay vào đó, nếu sự thật là sự thật của tình yêu Thiên Chúa thì nó không thể bị áp đặt bằng bạo lực và không đàn áp người ta. Do đó, đức tin thì không cố chấp và, người tín hữu cũng không kiêu căng ngạo mạn. Trái lại, đức tin làm cho người tín hữu trở thành khiêm tốn đồng thời dẫn đưa người ta đến chỗ cùng chung sống và nể trọng tha nhân. Từ đó, nó theo đường lối đức tin dẫn đưa đến đàm thoại về nhiều phương diện: về phương diện khoa học, vì nó làm sống lại tinh thần phê bình và mở rộng chân trời lý trí, mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng cảnh Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ mà ngỡ ngàng; về phạm vi liên tôn, trong đó Kito giáo chia sẻ những đóng góp của riêng mình; về đối thoại với những người không phải là tín hữu, là những người không ngừng tìm tòi, “ráng sức sống như thể là có Thiên Chúa hiện hữu”, bởi vì “Thiên Chúa là ánh sáng và bất cứ ai muốn tìm kiếm Người với thiện tâm thì đều thấy được”.  “Bất cứ ai -ĐTC nhấn mạnh- bước lên đường đi làm việc thiện cho tha nhân, thì họ đã đang tiến gần đến Thiên Chúa rồi”. Sau cùng,  Ánh Sáng Đức Tin nói về vấn đề thần học và xác định là không thể không có Đức Tin, bởi vì Thiên Chúa không phải là một “vật thể” đơn giản, mà đúng ra là một Chủ Thể tự biết. Thần học là một tham dự / góp phần vào sự hiểu biết về Thiên Chúa; do đó thần học phải được xếp đặt để phục vụ đức tin Kito giáo và huấn quyền của Giáo Hội  không phải là một giới hạn ngăn cản tự do thần học, nhưng thật ra là một trong những yếu tố tạo thành của nó vì nó bảo đảm việc tiếp cận với suối nguồn gốc rể là Lời Đức Kito.

 

CHƯƠNG  BA (Các số 37- 49)

Tôi đã truyền lại cho anh em những điều mà tôi đã nhận được (1 Cr 15:3) 

Chương này hoàn toàn nhắm vào sự quan trọng của việc hoành dương Tin Mừng. ĐTC viết: Ai đã tự mở lòng mình với tình yêu Thiên Chúa thì không thể giữ cái tặng vật này cho riêng mình được. Ánh sáng chúa Giesu chiếu rọi vào chính diện những người Kito hữu và lan tỏa ra theo cùng một cách thức đó, nó lưu truyền bằng hình thức va chạm giống như ngọn lửa được mồi từ người này rồi truyền qua người khác, từ thế hệ này sang thế hệ kia, xuyên qua những mắt xích không đứt đoạn của những chứng nhân đức tin. Điều này dẫn đến một liên hợp giữa đức tin và ký ức vì tình yêu Thiên Chúa giữ cho hiệp nhất trong mọi thời đại, khiến cho chúng ta thành những người của chúa Kito cùng một thời với nhau. Ngoài ra, “không thể nào tin vào chính chúng ta được”, bởi vì đức tin không phải là “một quyết định của cá nhân”mà phải mở rộng từ “Tôi” đến “Chúng Tôi” và luôn luôn xẩy ra “trong cộng đồng Giáo Hội”. Do đó, “những ai tin thì không bao giờ bị cô đơn”, bởi lẽ họ khám phá thấy những không gian của chính họ được mở rộng thêm và phát sinh ra những tương quan mới làm phong phú cho cuộc sống. 

Tuy nhiên, còn có “một phương cách đặc biệt nữa”, nhờ đó mà đức tin có thể được truyền lan đi là các phép bí tích, trong đó “ký ức nhập thể” phải được thông công. Trước tiên ĐTC nói tới bí tích Thanh Tẩy -cho trẻ em cũng như người lớn dưới hình thức dự tòng- tức nhắc nhở chúng ta là đức tin không phải là việc làm của cá nhân riêng lẻ, một công việc mà người ta có thể thi hành một mình, nhưng  phải được nằm trong sự thông công của Giáo Hội. “Không ai được tự mình rửa tội cho mình”. Ngoài ra, vì đứa trẻ được rửa tội không thể tự mình tuyên xưng đức tin nên cần phải có sự phụ giúp của cha mẹ đẻ và cha mẹ đỡ đầu. “Sự cộng tác giữa Giáo Hội và gia đình là cần thiết”. Thứ đến, tông thư nhắc đến Bí tích Thánh Thể, là “của ăn quí hóa cho đức tin”, một “cử chỉ nhớ lại, một tặng vật của màu nhiệm”, nó “dẫn đưa từ thế giới hữu hình đến thế giới vô hình” chỉ dạy cho chúng ta biết chiều sâu của thực tế. ĐTC từ đó nói đến việc tuyên xưng đức tin, bằng Kinh Tin Kính, trong đó người tin hữu không phải chỉ tuyên xưng đức tin mà còn phải  dấn thân vào sự thật mà họ tuyên xưng. Đó là cầu nguyện, kinh Lạy Cha, nhờ đó, người Kito hữu học nhìn qua cách nhìn của chúa Kito. Mười Điều Răn của Chúa, không nên hiểu là “những giới răn có tính tiêu cực”, mà thực ra là “những chỉ dẩn cụ thể” để đi đến đối thoại với Thiên Chúa, để được “Chúa thương xót che chở”, là “con đường tri ân” đối với việc hiệp thông hoàn toàn với Thiên Chúa. Sau cùng, ĐTC nhấn mạnh chỉ có một đức tin, bởi vì chỉ có “một Thiên Chúa là đấng mà người ta biết và tuyên xưng”, bởi vì nó hướng dẫn đến một Thiên Chúa, đấng ban cho chúng ta “một sự chiêm ngưỡng chung” và “được chia sẻ bởi toàn thể Giáo Hội là một thân thể và một thần linh”. Do đó chỉ có một đức tin mà thôi và nó phải được tuyên xưng với tấc cả vẻ tinh tuyền và trọn vẹn của nó: “Tính duy nhất của đức tin chính là tính duy nhất của Giáo Hội”; lấy một cái gì ra khỏi đức tin là lấy ra một cái gì khỏi tính trung thực của sự hiệp thông. Hơn nữa, vì tính duy nhất của đức tin cũng là tính duy nhất của một cơ quan sống, cho nên có có thể đồng hóa / tiêu hóa tấc cả những gì mà nó gặp, chứng tỏ tự nó là phổ quát, là công giáo, là sáng láng và khả dĩ dẫn đưa tất cả vũ trụ và toàn thể lịch sử đến một biểu thị tinh tế nhất của nó. Tính duy nhất này được bảo đảm bởi sự kế tiếp liên tục của các tông đồ.

 

CHƯƠNG BỐN (Các số 50-60)

Thiên Chúa chuẩn bị cho họ một thị trấn (Dt 11:16)  

Chương này cắt nghĩa sự liên hệ giữa đức tin và lợi ích chung, nó dẫn tới sự tạo thành một nơi trong đó người nam và người nữ sống với nhau cùng với những người khác. Đức tin được sinh ra do tình yêu của Thiên Chúa, nó làm cho sự gắn bó giữa con người và chính nơi ấy đươc mạnh mẽ để phục vụ công lý, quyền lợi và hòa bình. Vì vậy, nó không làm cho người ta xa cách thế giới và không liên hệ với những cam kết thực sự của con người thời nay. Trái lại, nếu không có tình yêu Thiên Chúa, mà chúng ta tin tưởng thì những gắn bó giữa con người với nhau có lẽ chỉ  đặt trên  lợi ích, quyền lợi và sợ hãi. Trong khi đó đức tin nắm giữ một nền tảng xâu xa nhất của tình liên đới giữa con người với nhau, số phận chung cuộc của họ nơi Thiên Chúa, và xếp đặt họ để phụng sự thiện ích chung. Đức tin thì “cho tấc cả mọi người, vì nó là lợi ích chung”, mục đích của nó không đơn thuần là xây dựng đời sau mà là giúp họ thiện hóa xã hội để họ có thể cùng nhau đi đến một tương lai hy vọng. 

Thông điệp bấy giờ coi những phạm vi này như được đức tin soi sáng: Trước hết là gia đình đặt nền tảng trên hôn nhân, được hiểu là một nối kết giữa người nam và người nữ. Điều này có được là do nhận biết và chấp nhận tính tốt lành của sự khác biệt giới tính và, dựa vào tình yêu trong chúa Kito, hứa hẹn “một tình yêu đời đời” và thừa nhận tình yêu như là tạo hóa dẫn đưa tới việc sinh con cái. Rồi, giới trẻ. Ở đây ĐTC nhắc đến Ngày Giới Trẻ Thế Giới, ở đó những người trẻ chứng tỏ “niềm vui đức tin” và họ cam kết sống đức tin một cách vững chắc và quảng đại. “Những người trẻ muốn sống -ĐTC viết- một cuộc sống thật đầy đủ”. “Gặp gỡ chúa Kito….mở rộng chân trời hiện hữu, cho nó một hy vọng chắc nịch sẽ không làm ai phải thất vọng. Đức tin không phải là nơi trú ẩn cho những kẻ nhút nhát, nhưng là cái gì có thể hưng phấn cuộc sống của chúng ta”. Lại nữa, trong mọi liên đới xã hội, nhờ làm cho chúng ta thành con cái Thiên Chúa, đức tin thực sự cho ra một ý nghĩa mới về tình huynh đệ phổ quát, nó không đơn thuần là bình đẳng mà đúng ra còn là một cảm nghiệm chung về tình cha con của Thiên Chúa, sự hiểu biết về phẩm giá độc nhất của mỗi người. Một phạm vi nữa là phạm vi bản tính của đức tin. Đức tin giúp chúng ta biết kính trọng nó, biết “tìm kiếm những mẫu mực phát triển đặt căn bản không chỉ đơn thuần trên tiện nghi và lợi nhuận mà còn coi việc tạo dựng như là một tặng phẩm”. Nó dạy chúng ta tìm kiếm những hình thái chính phủ, trong đó quyền lực đến từ Thiên Chúa và phụng sự công ích. Nó đưa ra cho chúng ta những khả dĩ để tha thứ sẽ dẫn đưa chúng ta vượt thắng mọi bất hòa. “Khi đức tin trở nên yếu -ĐTC viết-  thì nền tảng của nhân loại cũng bị lâm nguy yếu theo”, và nếu chúng ta lấy đức tin trong Chúa ra khỏi những tỉnh thành của chúng ta thì chúng ta sẽ làm mất sự tin tưởng nơi nhau và có liên kết cũng chỉ vì sợ hãi. Do đó, chúng ta không được xấu hổ khi công khai tuyên xưng đức tin, bởi vì đức tin soi sáng đời sống xã hội. Một phạm vi nữa được đức tin soi sáng là vấn đề đau khổ và sự chết: Nười Kito hữu biết rằng đau khổ không thể bị hủy bỏ đi được, nhưng nó có một ý nghĩa của nó là phó thác vào tay Thiên Chúa là đấng không bao giờ bỏ rơi chúng ta và vì vậy nó trở thành “cơ hội cho đức tin lớn mạnh”. Đối với kẻ đau khổ, Thiên Chúa không cho lý do để cắt nghĩa tất cả mọi sự, nhưng thực ra Chúa cung hiến cho chúng ta sự hiện diện của người luôn luôn theo sát chúng ta, mở rộng điểm sáng trong bóng tối. Theo nghĩa đó thì đức tin liên kết với hy vọng. Ở đây ĐTC kêu gọi: “Chúng ta hãy từ chối đừng để cho hy vọng bị cướp mất, hay để nó bị lu mờ vì những hồi đáp và giải quyết dễ dàng làm cản trở bước tiến của chúng ta”.

 

KẾT LUẬN (Các số 58-60)

Phúc cho ai có lòng tin (Lc 1:45) 

Trong phần kết của thông điệp, ĐTC mời gọi chúng ta nhìn về Mẹ Maria, “biếu tượng toàn hảo” của đức tin, mẹ là mẹ Chúa Giesu, đã nhận thức được “đức tin và niềm vui”. ĐTC cất cao lời cầu của ngài lên mẹ Maria là mẹ có thể trợ giúp con người trong niềm tin của họ, nhắc nhở chúng ta là những kẻ tin thì không bao giờ cô đơn và dạy chúng ta biết nhìn theo cách nhìn của chúa Giêsu.

(July 5, 2013) @Innovative Media Inc.  

Fleming Island, Floria

July 8, 2013

Nguyễn Tiến Cảnh chuyển ngữ.

Tác giả:  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD. (Chuyển ngữ)

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!