Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Giáo Sĩ Việt Nam
TÌM HIỂU PHÚC ÂM THÁNH LUCA ( 4 ).


 

NGUYỄN HỌC TẬP

II - Thời niên thiếu của Chúa Giêsu ( Lc 1, 5 - 2, 52).
Thánh Matthêu, Luca và Gioan thêm vào tác phẩm chính của các vị khoảng tường thuật về " thời niên thiếu của Chúa Giêsu " .
Trong khi đó thì khoảng liên hệ được xem là bài ca ngợi khen cỗ của Kitô giáo,
  - tuyên xưng đặc tính tiền hiện hữu, đã có từ muôn thuở, của Chúa Giêsu,
    * " Từ muôn thuở đã có Ngôi Lời và Ngôi Lời vẫn ở nơi Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa " ( Jn 1, 1)
  - và biến cố nhập thể của Người,
    * " Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta " ( Jn 1, 14).

Đoạn tường thuật lại vừa kể của Thánh Matthêu, được viết lên với tính cách là những lời tuyên bố chính thức và như là lời huấn dạy giáo lý.
Trong khi đó thì đoạn tường thuật của Thánh Luca là những gì được suy nghĩ, phối hợp giữa giáo lý và suy niệm.

Những gì được tường thuật lại về " thời niên thiếu của Chúa Giêsu " có lẽ không nằm trong các lời huấn dạy nguyên thủy của các Thánh Tông Đồ, bởi lẽ
  - không những sứ mạng công cộng của Chúa Giêsu chỉ được khởi đầu từ lúc Người nhận phép rửa của Thánh Gioan Tẩy Giả,
  - mà còn do sự kiện sứ mạng các Thánh Tông Đồ chỉ dựa vào các vị loan báo và nhân chứng những gì chính mình được mắt thấy tai nghe nơi Chúa Giêsu.

Khởi đầu từ Lễ Hiện Xuống, trong các lời loan báo huấn dạy của mình, các Thánh Tông Đồ nhắc       đến
  * biến cố phục sinh, khổ nạn và tử nạn, sứ mạng công cộng của Chúa Giêsu
  * và sau cùng là đến " đời sống ẩn dật bí nhiệm " của Người với Chúa Cha.
Như vậy các đoạn tường thuật lại về " thời niên thiếu của Chúa Giêsu " chỉ được đề cập đến lúc sau, trể hơn, để huấn dạy cho dân chúng đầy đủ về động tác và lời nói cứu độ của Chúa Giêsu.

Hiểu như vậy, chúng ta thấy được Thánh Luca nói lên trong đoạn tường thuật " thời niên thiếu của Chúa Giêsu " thượng đỉnh nền thần học của ngài. Bởi đó có lẽ để có được tầm hiểu biết sâu rộng hơn, chúng ta nên đề cập đến, sau khi đã học hiểu qua những gì được viết lên trong Phúc Âm của ngài.
Đó cũng là những gì Thánh Matthêu cũng đã suy niệm và viết lên, " thời niên thiếu của Chúa Giêsu ", sau khi trên thực tế đã rao giảng và nhân chứng động tác và lời nói của Chúa Giêsu.

Những đoạn tường thuật về " thời niên thiếu của Chúa Giêsu " mang ý nghĩa thần học thật cao siêu và diễn tả cho thấy nhu cầu của cộng đồng Kitô giáo tiên khởi ( cộng đồng được các Thánh Tông Đồ hướng dẫn " cảm nhận thấy cần phải thấu hiểu được " mầu nhiệm " của Chúa Kitô tử nạn và phục sinh, cũng như tất cả những gì  có liên hệ ngay từ lúc khởi đầu.
Đây là " một bước lùi lại ", một câu hỏi mà cộng đồng Kitô hữu tự đặt cho chính mình, như vậy " lúc khởi đầu " cuộc đời Chúa Giêsu như thế nào, cả dưới ánh sáng của các trích dẫn Thánh Kinh.

Điều vừa kể cho thấy nhu cầu thần học được đặt ưu tiên trước thực tế lịch sử, bởi đó đọc " thời niên thiếu của Chúa Giêsu " chúng ta cảm nhận được là một cách tường thuật lịch sử khác với phần còn lại của Phúc Âm.

Chúng ta vẫn thường nghe các nhà nghiên cứu đề cập đến đoạn tường thuật đang bàn là " midrashico " , tức là có những đề cập đến yếu tố lịch sử không dễ gì có thể kiểm chứng được, bởi lẽ trong đó Thánh tác giả đặt nặng cách giải thích thần học và đạo đức thiêng liêng hơn là dữ kiện lịch sử. Vì dụ như
  - Các Nhà Chiêm Tinh ( hay Ba Vua ) là ai?
 - Ai có thể nói được tông tích của những nhân vật nầy ?
Chắc chắn là không ai.
Và chính Thánh Matthêu là tác giả tường thuật lại biến cố của các nhân vật vừa kể, cũng chỉ nói được cho chúng ta rất ít về các vị.
Như vậy, không ai được phép thần thoại hóa các vị, bỏi vì khối nhân cội lịch sử của biến cố khó mà tìm lại được trong lịch sử.
Từ đó chúng ta hiểu được chủ đích của Thánh Matthêu và Thánh Luca nhắc lại cho chúng ta về một vài biến cố thời niên thiếu của Chúa Giêsu, mà chất liệu lịch sử thật là ít oi, là nhằm chú giải và suy niệm về cuộc đời Chúa Giêsu.

Từ đó chúng ta có thể kết luận rằng các đoạn văn tường thuật về thời niên thiếu của Chúa Giêsu là những gì đưọc viết lên bằng cách góp nhặt và liên tưởng đến Cựu Ước:
  - Lc 1, 12 ( Dan 10, 7.12),
  - Lc 1, 16...( Mal 3, 1...),
  - Lc 1, 19 ( Dan 9, 20-23),
  - Lc 1, 28-32 ( Zc 3, 14-17);
  - Lc 1, 35 ( Ex 40, 35),

  - Lc 1, 40.46.55 ( 2 Sam. 6),
  - Lc 1, 42 ( Jd 5, 24),
  - Lc 1, 64...( Dan 10, 16...),
  - Lc 1, 76 ( Mal 3, 1).

    A - Bức tranh loan báo ( Lc 1, 5-56 ).
Hai lần " loan báo " nầy nói lên đặc tính của Phúc Âm là một " Tin Mừng " . Và chính trong hai lần loan báo đó, lần đầu tiên Thánh Luca dùng đến từ ngữ " Phúc Âm ", " Tin Mừng ", khi loan báo cho các mục đồng và cho Zaccaria :
 - " Nhưng thiên sứ bảo họ: " Anh em đừng sợ. Nầy tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân. Hôm nay một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua David, Người là Đấng Kitô Thiên Chúa " ( Lc 2, 10-11).
Trong lúc trình bày biến cố thực sự loan báo, Thánh Luca đã muốn đưa ra một lời huấn dạy thần học và qua sự khéo léo của ngài, ngài muốn so sánh hai biến cố như hai lần loan báo, hay đúng hơn hai phần của một bức tranh: loan báo: 
  - cho Zaccaria
  - và truyền tin cho Mẹ Maria,
qua việc tường thuật lại biến cố sinh ra của Gioan Tẩy Giả và sinh nhật của Chúa Giêsu, bai ca Chúc Tụng của Zaccaria và bài ca Ngợi Khen của Me Maria.

    1) Loan báo biến cố sinh ra của Gioan Tẩy Giả ( Lc 1, 5-25).
Thánh Luca quyết định khỏi đầu tác phẩm của ngài bằng cách giới thiệu thầy tư tế Zaccaria trong đền thờ.
Ngài rất có thể khởi sụ, ví dụ, bằng cách giới thiệu Đức Maria đang cầu nguyện cùng với các phụ nữ khác ở Nazareth, kế đến cho biết rằng người bà con của Mẹ là bà Elizabeth ( Lc 1, 36), một phụ nữ già nua và hiếm hoi.
Nhưng Thánh Luca không làm như vậy, ngài đặc tâm chú ý vào Giêrusalem và vào đền thờ của ngài, hiểu ngầm cả vào cả dân chúng của miền thuộc hệ.
Hành động như vậy với ý định gì?
Nhiều chi tiết của biến cố loan báo cho Zaccaria có liên hệ với quá khứ, với những gì đuọc Cựu Ước ghi lại, trong đó có những cuộc sinh nở phi thường:
  - biến cố thiên thần của Chúa xuất hiện và lòng kính sợ của con người trước sự mạc khải của Chúa,
  - sứ điệp từ trời và tiếp đến là một sự đặt thành vấn đề của con người hay sự con người yêu cầu cho thấy được dấu chứng rằng tất cả đều sẽ xảy đến như những gì được loan báo.
Khuôn  mẫu của những gì vừa kể, chúng ta có thể gặp được trong biến cố
  - mang thai Ismaele ( Gen 16, 7-13),
  - mang thai Isaac ( Gen 17-18),
  - mang thai Samson  ( Jdc 13),

Những yếu tố đó sẽ được lấy lại trong biến cố truyền tin cho Mẹ Maria. Chúng ta nên lưu ý rằng trong các biến cố được Cựu Ước ghi lại, cũng như các lần được Thánh Luca nói đến, đều là những cuộc đối thoại, trong đó yếu tố chính yếu là mạc khải.
Ngoài ra lời loan báo cho sự sinh ra của Gioan Tẩy Giả có ý liên tưởng rõ ràng đến Abraham và bà Sarà, vợ ông: tuổi già nua còn được thêm vào tình trạng hiếm hoi ( Gn 16-17). Như Abraham ( Gen 15, 8), vị tư tế già nua Zaccaria xin thấy được một dấu hiệu:

  - "  Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy, vì tôi đã già và nhà tôi cũng đã lớn tuổi " ( Lc 1, 18).

Nhưng vì lý do gì mà vị thiên sứ cho rằng, Zaccaria đặt ra cùng một câu hỏi như Abraham, cũng tỏ ra thái độ không tin tưởng như Abraham?
Theo một số học giả, thì Zaccaria đã biết được từ Thánh Kinh, sự hiếm hoi và tuổi già không phải là những gì cản trở đối với Thiên Chúa, mà trong quá khứ đã ban tặng con cái cho các tổ phụ.
Theo những học giả khác, như chúng ta sẽ thấy trong phần bình luận một vài từ ngữ của cuộc đối thoại, đó là Zaccaria muốn nói lên liên quan đến phương diện thẩm mỹ.

  - " Thời vua Erode ":  tức là Erode Đại Đế, cai trị trong gần 40 năm và chết đi vào năm thứ 4 trước Thiên Chúa Giáng Sinh.
Bởi đó năm khởi đầu của lịch sử Kitô giáo ( và năm nay là năm 2012, kể từ đó) không trùng với năm Chúa Giêsu sinh ra, có lẽ đúng hơn là vào năm thứ 5 trước Thiên Chúa Giáng Sinh.
Thánh Luca không có khả năng cho chúng ta biết chính xác thời điểm loan báo năm Gioan Tẩy Giả được mang thai, hay ngài thấy không cần gì phải cho biết chính xác.
Nhưng ngài vẫn ý thức rằng mình đang thuật lại một biến cố đích thực, đã xảy ra trong một thời điểm và ở một nơi xác thực, với những nhân vật có thực trong lịch sử Do Thái:

  - " Zaccaria ":  ý nghĩa của tên ông có nghĩa là " Thiên Chúa nhớ đến ". Ngài thuộc về thế hệ tư tế thứ 8, dòng họ Abia, một trong 24 người cháu của vị tư tế tiên khởi, Aronne ( 1 Cron 24, 10).

  - " Elisabeth ", tên của bà có nghĩa là " Thiên Chúa đã tuyên hứa ( sẽ cứu chúng ta ) ". Bà là một người bà con với Mẹ Maria, mặc dầu chúng ta không biết rõ được thứ bậc liên hệ đó như thế nào:
   
   * " Kià bà Elisabeth, họ hàng với bà, tuy đã già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai, bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng " ( Lc 1, 36).

Hai vợ chồng Zaccaria - Elisabeth không có con.
Câu mở đầu nầy làm cho chúng ta liên tưởng đến nhiều phụ nữ thời danh Do Thái, mắc phải nạn hiếm hoi trong một thời gian lâu:
   * Sara ( Gen 15, 3; 16, 1),
   * Rebecca ( Gen 25, 2),
   * Rachele ( Gen 29, 31),
   * Anna ( 1 Sam 1, 2).

  - " Cả hai ông bà đều là người công chính ", khác hẵn đối với những người Pharisêu,

   * " Chúa Giêsu bảo họ: " Các ông làm bộ công chính trước mặt người đời, nhưng Thiên Chúa thấu biết lòng các ông, bởi lẽ điều cao trọng đối với người đời, lại là điều ghê tởm trước mạt Thiên Chúa " ( Lc 16, 15).

Hai ông bà hằng luôn luôn tin cậy Thiên Chúa thực hiện những gì Người đã hứa và bởi đó ho luôn sẵn sàng để cho thánh ý Người hướng dẫn
    *
" Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công Chính, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân " ( Act 3, 14),
   * " Ông ( Moisen )  tưởng các anh em ông sẽ hiểu rằng Thiên Chúa dùng tay ông để ban ơn cứu độ cho họ; nhưng họ thì không hiểu " ( Act 7, 25).

  - " Môt đoàn lủ dân chúng đông đảo " đợi ông, Zaccaria và lấy làm lạ sao ông ở lại trong cung thánh lâu như vậy " ( Lc 1, 21). Đoạn tường thuật vừa kể nhắc lại đây là buổi dâng hương kinh chiều, đúng hơn là buổi tế tự ban sáng.

  - " Bỗng một sứ thần của Chúa ", đây là một hình ảnh quen thuộc của Cựu Ước ( Gen 16, 10; 22, 11.15.16; Ex 3, 2; Sam 14, 16). Cuộc tường thuật lại biến cố loan báo, dựa trên nguyên bản các lý do của những lần loan báo trong Cựu Ước:
    * thiên thần của Chúa,
      thái độ bối rối và lo sợ của con người trước sự hiện diện của sứ giả Thiên Chúa,
      thiên sứ trấn an có sự hiện diện của Chúa,
      lời đòi hỏi một dấu chứng.
Đó là những yếu tố trong Cựu Ước thường luôn luôn đi liền với biến cố Thiên Chúa hiện ra cho con người. Và đó cũng là những gì chúng ta sẽ gặp lại trong biến cố truyền tin cho Mẹ Maria. Những tư tưởng song song với Cựu Ước vừa kể làm cho chúng ta khó đoán được đâu là nhân cội cốt lỏi lịch sử của tài liệu thần học đoạn  Phúc Âm Thánh Luca.

  - " ... Đừng sợ ", từ ngữ vừa kể thường được dùng để nói lên động tác cứu độ của Thiên Chúa:
    * " Hỡi Abraham, đừng sợ, Ta là khiên che thuẩn đỡ cho ngươi, phần thưởng của ngươi sẽ rất lờn " ( Gen 15, 1),
    * " Mạnh bạo lên, can đảm lên ! Đó chẳng phải là lệnh Ta đã truyền cho ngươi sao? Đừng rung khiếp, đừng sợ hãi, vì Thiên Chúa của ngươi sẽ ở với ngươi, bất cứ nơi nào ngươi đi tới " ( Js 1, 9),
   *"    Hỡi các đảo, hãy lắng nghe tôi, mong các dân được thêm sức mạnh, hãy tiến lại gần và và lên tiếng nói ! " ( Is 41 1)
   * " Điều đó, ai đã thực hiện, ai đã làm nên?
       - Chính là Đấng từ nguyên thủy đã an bài cho các thời đại nối tiếp nhau " ( Is 41, 4).

Các lời của thiên sứ lập lại công thức công bố biến cố sinh nở cũng thường được dùng trong Thánh Kinh:
  - " Sứ thần của Chúa hiện ra với người vợ và nói với bà: " Nầy bà là người son sẻ và không sinh con, nhưng bà sẽ có thai và sinh một con trai " ( Jd 13, 3),
  - " Vì vậy chính Chúa Tối Cao sẽ ban cho các ông một dấu: nầy đây người thiếu nữ sẽ mang thai, sinh con trai và đặt tên là Emmanuel " ( Is 7, 14).

  - " Gioan ", tên của ngài có ý nghĩa là " Yahvé đã tỏ ra cho thấy ơn huệ của Người " . Đó là danh tánh có ý nghĩa nói lên vai trò của Gioan trong chương trình cứu độ của Người.

  - " Vui mừng hớn hở ", đó là dấu chỉ thời đại của vị cứu độ:
   * " Trời vui lên, đất hãy nhảy mừng, biển gầm vang cùng muôn loài hải vật " ( Ps 96, 11...),
   * " Chúa là vua hiển trị, hỡi địa cầu hãy nhảy mừng lên, vui đi nào ngàn muôn hải đảo...Được biết thế , Sion tưng bừng hoan hỷ; thành thị miền Giuda hớn hở nhảy mừng, vì những phán quyết của Ngài, lạy Chúa " ( Ps 97, 1.8),
   * " Vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng...Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khắp khởi vui mừng " ( Ps 126, 2.5),
   * " Dân Sion hãy reo hò mừng rỡ, vì giữa ngươi Đức Thánh của Israel quả thật là vĩ đại ! " ( Is 12, 6),
   * " Ngày ấy người ta sẽ nói: " Đây là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta từng trông đợi Người, và đã được Người thương cứu độ. Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông. Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng, bởi được Người cứu độ " ( Ps 25, 9).

  - " Vì em bé sẽ trở nên cao trọng trước mặt Chúa ", từ ngữ tiền báo đó được dùng đến 23 lần trong Phúc Âm Thánh Luca và 13 lần trong Sách Tông Đồ Công Vụ, chỉ trừ một lần trong phúc Âm Thánh Gioan ( Jn 20, 30), không được nhắc đến trong các Phúc Âm còn lại.
Điều vừa kể cho thấy Thánh Luca đã diễn giải và khai triển thêm Phúc Âm thời niên thiếu của Chúa Giêsu.

  - " Rượu lạt, rượu nồng em đều không uống ", em bé sẽ được khấn đặc biêt kiêng cữ ngay cả trước khi sinh ra:
    * " Thiên Chúa phán với ông Moisen: " Ngươi hãy nói với con cái Israel và bảo chúng: bất cứ ai, nam hay nữ, đã khấn đặc biệt kiêng cữ để kính Chúa, thì nó phải kiêng rượu và men nồng, không được uống giấm chua từ chất men, không được uống mọi thứ nước nho, không được ăn nho tươi, cũng như nho khô... " ( Num 6, 1-21).

Một đặc tính đặc biệt khác của người đã khấn là không được hớt tóc đi:
   * " Bà ( Anna ) khấn hứa rằng: " Lạy Chúa các đạo binh, nếu Ngài đoái nhìn đến nỗi khổ cực của nữ tỳ Ngài đây, nếu Ngài nhớ đến con và không quên nữ tỳ Ngài, nếu Ngài cho nữ tỳ Ngài một mụn con trai, thì con sẽ dâng nó cho Chúa mọi ngày đời nó, và dao cạo sẽ không đụng tới đầu nó " ( 1 Sam 1, 11),
    * " Vậy xin anh làm như chúng tôi nói với anh đây: chúng tôi có bốn người đang phải giữ lời khấn, anh hãy đem theo và làm nghi lễ tẩy uế với họ, và đài thọ chi phí cho họ để họ có thể được xuống tóc..." ( Act 21, 23-26),

Điều vừa kể không được đề cập đến trong trường hợp của Gioan Tẩy Giả. Có lẽ thánh Luca ở đây đã dùng một đoạn cũ hơn khi nói về Samson:
   * " Tất cả những gì bởi cây nho mà ra, thì bà không được ăn, cũng không được uống rươu và thức có men; tất cả những gì không thanh sạch, thì không được ăn. Mọi điều tôi đã truyền, thì bà phải tuân giữ " ( Jud 13, 14).
Cũng như có lẽ lời khấn hứa không được dùng chính xác lắm trong lịch sử, có lẽ với nhiều điều khấn hứa khác nhau như trong đời sống khắc khổ được thực hiện trong cộng đồng Qumran.

  - " Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã được tràn đầy Thánh Thần " , như vị ngôn sứ Geremia thứ hai:

   * Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trưóc khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân " ( Ger 1, 3).

Điều vừa kể cho thấy rằng mọi động tác của Gioan Tẩy Giả đã được Thiên Chúa có sáng kiến tiền định và nâng đỡ. Bởi đó không ai khác thích hợp cho vai trò tiền hô của Chúa Giêsu hơn Gioan Tẩy Giả.

   " Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần ", từ ngữ Thánh Thần ở đây không có ý ám chỉ Ngôi Ba Thiên Chúa, mà là chính Thiên Chúa, Đấng đang tác động quyền lực cứu độ phi thường.

  - " Em sẽ đưa nhiều con cái Israel về với Chúa là Thiên Chúa của họ ", câu nói vừa kể có thể có ý nghĩa ám chỉ
  phận vụ tư tế để hoà giải dân chúng lại với Chúa
  hay liên quan đến chủ đề Xuất Hành, đến cuộc trở về đất hứa:
    * " Miệng nó nói lời chân thật và môi nó không nói lời gian ác ! Nó đi với Ta trên nẻo đường bình an và ngay thẳng; nó đã làm cho nhiều người cải tà quy chánh " ( Mal 2, 6 ),
    * " Mọi dân tộc sẽ khen các ngươi có phúc, vì các ngươi là mảnh đất xinh đẹp, Đức Chúa các đạo binh phán " ( Mal 3, 24).

  - " Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Elia ", theo truyền thống Do Thái ( Mal 3, 23)
, sự trở lại của Elia phải đến trước và chuẩn bị cho thời gian của Đấng Cứu Độ.
Gioan Tẩy Giả sẽ là Elia phải đến:

    * " Các môn đệ hỏi Người rằng :" Vậy sao các kinh sư lại nói Elia phải đến trước "? Người đáp. " Ông Elia phải đến để chỉnh đốn mọi sự ..." ( M 17, 10-23).
    * Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Moisen và ông Elia ..." ( Lc 9, 30).

Điều vừa được đề cập cho thấy dường như thành phần dân chúng mà Thánh Luca đang nhằm đến, không có cách ăn ở các " vị cha ông " hiên ngang và độc lập, mà như " con cái " đạo đức và vâng phục. Đó là việc so sánh song song giữa cha ông ( bất tuân ) và con cái ( khôn ngoan công chính ).

  - "  Làm sao tôi biết được điều đó ? ", câu hỏi của Zaccaria cũng như câu thắc mắc của Abraham:
    * " Ông Abrham thưa: Chúa coi, Chúa không ban cho con một dòng dõi, và một gia nhân của con sẽ thừa kế con. Và đây là lời Chúa phán với ông: " Kẻ đó sẽ không thừa kế ngươi, nhưng một kẻ do chính ngươi sinh ra mới thừa kế ngươi ". Rồi Người đem ông ra ngoài và phán : "  Hãy ngước mắt lên trời và thử đếm các vì sao, xem có đếm nỗi không". Người lại phán. " Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó " ( Gen 15, 3-5)

Xin cho thấy một dấu chứng là điều hoàn toàn hợp với cách ăn ở trong Thánh Kinh:
  - " Ông Abraham thưa: " Lạy Chúa, làm sao mà biết là con sẽ được đất nầy làm sở hữu " ( Gen 15, 8); Jud 6, 36...; 2 Re 20, 8).

Một đội khi chính Thiên Chúa cho biết dấu chứng:
    * " Người phán: " Ta sẽ đi với ngươi. Và đây là dấu cho ngươi biết là Ta đã sai ngươi: khi ngươi đưa dân ra khỏi Ai Cập, các ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa trên núi nầy " ( Ex 3, 12),
    * " Ngươi cứ xin Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho một dấu dưới âm phủ hoặc trên chốn cao xanh " ( Is 7, 11).

Nhưng hình phạt do lòng nghi ngờ đó đối với Zaccaria chỉ là hình phạt tạm thời và được giảm thiểu đi bởi niềm hân hoan trông đợi đứa con:

    * " Và nầy đây ông sẽ bị câm, không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không tin lời tôi, là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi " ( Lc 1, 20).

Chúng ta cũng có cảm tưởng rằng những gì xảy ra cho Zaccaria vừa kể có ý ám chỉ đến niềm vui quá to lớn ngất trí, để có thể diễn tả được bằng lời nói:
    * " Nghe những lời nói đó, tôi cúi mặt xuống đất, không nói nên lời " ( Dan 10, 15...).
    * " Các ông còn chưa tin, vì mừng quá và đang ngỡ ngàng , thì Người hỏi: " Ở đây anh em có gì ăn không " ( Lc 24, 11)

  - " Ông trở về nhà ", đoạn cuối của biến cố loan tin cho Zaccaria cũng tương tợ như đoạn tường thuật về bà Anna:

     * " Sáng hôm sau, họ dậy sớm và sụp lạy trước nhan Đức Chúa , rồi trở về nhà ở Rama. Ông Elkana ăn ở với bà Anna, vợ mình, và Thiên Chúa đã nhớ đến bà..." ( 1 Sam 1, 19...).

Zaccaria sống trong vùng thuộc chi tộc Giuda, theo truyền thống cỗ thì nhà của ông ở " Ain Karim ", khoảng 45 cây số cách Giêrusalem.

  - " Bà ẩn mình trong năm tháng ", có lẽ bà Elisabeth ẩn mình vì lý do chồng bà, ông Zaccaria bị câm nín, nhứt là vì lý do một niềm vui to lớn không thể tưởng tượng  như vậy đối với bà, sẽ sinh được một cậu con trai:
    * Bà tự nhủ: " Chúa đã làm cho tôi  như thế đó, khi Người thương cất đi khổ nhục tôi phai chịu trước mặt người đời " ( Lc 1, 25)

    - " Nỗi khổ nhục ", theo tâm thức của con người lúc đó, việc không sinh con đẻ cái được coi như là sự nhục nhã, một hình phạt bị Chúa giáng xuống cho:
    * "  Bà ( Rachel ) có thai và sinh một con trai. Bà nói: " Thiên Chúa đã cất đi nỗi khổ nhục của tôi " ( Gen 30, 23)
    * " Ông Elkana, chồng bà, bảo bà: Anna, sao em khóc? Sao em không chịu ăn ? Sao lòng em rầu rĩ vậy? Đối với em, anh lại không hơn mười đứa con trai sao? " ( 1 Sam 1, 8),
    * " Bà khấn hứa rằng: " Lạy Chúa các đạo binh, nếu Ngài nhìn đến nỗi khổ cực của nữ tỳ Ngài đây, nếu Ngài nhớ đến con và không quên nữ tỳ Ngài, nếu Ngài cho nữ tỳ Ngài một mụn con trai, thì con sẽ dâng nó cho Chúa mỗi ngày đời nó, và dao cạo sẽ không đụng tới đầu nó " ( 1 Sam 1, 11).
 

Tác giả:  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!