Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến Hùng
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Văn Hóa Xã Hội
GIỚI THIỆU CUỐN SÁCH VIẾT TAY: TAM GIÁO CHƯ VỌNG (1752) Ạ

Trần Văn Toàn

Cuốn sách này chưa ai in, nhưng đáng được biết đến, vì nó là một thiên nghiên-cứu có liên-quan đến dân-tộc-học và lịch-sử văn-hóa dân-gian. Trước khi giới-thiệu, thiết tưởng cần phải đặt nó vào khung cảnh giao-lưu văn-hóa Đông Tây và vào hoàn-cảnh Việt-Nam trước đây hai thế-kỷ rưỡi.

 

1-  Truyền đạo và trao đổi văn-hóa 

Người ta trao đổi văn-hóa với nhau, bất kỳ là tự-do hay cưỡng-bách, thì thường là vì ba nguyên-nhân : một là do giới thương-nhân đi buôn Đông bán Tây, hai là do đế-quốc đem quân đi xâm lăng, ba là do các giáo-sĩ đi truyền đạo.  Ba nguyên-nhân đó có thể có tác-động biệt-lập, nhưng thường có tác-động giao-thoa với nhau.

Ví dụ như ở miền  đông châu Á, người Hán-tộc, một phần lớn đã đồng-hóa, một phần khác đã khai-hóa cho nhiều dân-tộc, một đàng thì vì có giao-lưu thương-mại, một đàng thì vì có quân-đội của thiên-triều bắt các dân-tộc nhược-tiểu phải thần-phục, nhưng một đàng khác nữa cũng là vì có những nhà nho, nhà sư đi truyền đạo. Họ đã ảnh-hưởng nhiều vào văn-hóa các nước chung quanh, cho nên, tuy không chịu đồng-hóa với người Tàu, nhưng người Nhật-bản, người Cao-ly, người Việt-nam, đều đã dùng chữ Hán một cách rất tự-nhiên, như là của mình vậy. Mãi gần đây người Cao-ly và người Việt-nam mới thôi không dùng chữ Hán nữa. Thế rồi các nhà sư từ Ấn-độ và các giáo-sĩ từ Tây-phương cũng theo đường của các thương-gia, sang truyền đạo ở khắp Á-châu, làm cho tư-tưởng phong-phú hơn lên. Văn-hóa thực là của chung nhân-loại. Cho đến nỗi, tuy đạo Phật là đạo ngoại lai, nhưng người miền Đông-Á vẫn coi đó là thành-phần của văn-hóa dân-tộc mình. Thậm chí gần đây ở Việt-nam đã có người cao-tuyên rằng Phật-giáo là dân-tộc. Làm như thể Phật-giáo chỉ có ở Việt-nam mà thôi, làm như thể Việt-nam chỉ có Phật-giáo mà thôi. Nhưng sử-gia sẽ xét xem lời cao-tuyên như thế có đúng hay không, đã được phát-biểu trong hoàn-cảnh nào, và với mục-đính gì.

Như thế đã rõ : không ai coi việc truyền đạo, chia sẻ niềm tin, ‘’tự giác, giác tha’’, là một điều xấu. Có chăng thì là vì có khi người ta dùng tôn-giáo để chi-phối chính-trị, để xúc-phạm hay là đàn-áp người khác. Ở Việt-nam thì Phật-giáo đã được các triều vua Lý, Trần, cực lực ủng-hộ, nhưng sang triều Hậu-Lê thì lại bị nhà nho chỉ-trích. Đạo Thiên-Chúa ở Việt-nam cũng bị chỉ-trích và bị cấm-cách, bắt-bớ. Đúng hay sai, phải hay trái, đó là việc các sử-gia phải đem chứng-tích ra bàn-luận.

Tôi còn nhớ trước đây chừng nửa thế-kỷ, đúng vào thời-kỳ mà, sau Thế-Chiến thứ hai, phong-trào tranh-đấu chống đế-quốc chủ-nghĩa được lan-tràn khắp nơi, có một người Ấn-độ, là ông K.M.Panikkar, trong cuốn sách nói về Á-châu và nền thống-trị của Tây-phương (Xem : Asia and  Western Dominance, London 1969), đã tung ra một cái nhìn tổng-quát độc-đáo về cuộc gặp-gỡ Đông Tây. Theo như ông quan-niệm thì Á-châu đã bị Âu-châu tấn-công và đàn-áp cả về hai mặt : về mặt vật-chất thì do sức mạnh của vũ-khí và kỹ-thuật, về mặt tinh-thần thì do đạo Thiên-Chúa. Như thế có nghĩa là việc truyền-bá tôn-giáo, nếu kẻ này cho là chia sẻ niềm tin, thì người khác lại cho là hành-động thù-địch. Nói thế khác, với cái chủ-trương ‘’vơ đũa cả nắm’’, ông cố ý gắn liền quân-đội viễn-chinh với các giáo-sĩ đạo Thiên-Chúa từ Âu-châu sang, coi như là hai mặt trái, phải, của  một cuộc tấn-công duy-nhất, nhằm tiêu-diệt văn-hóa người Á-châu, làm cho họ thành ra vong-bản, mất gốc. Tôi không còn nhớ rõ sách ấy xuất-bản đúng vào năm nào, nhưng có điều chắc, là quan-niệm đó đã được thành-hình trong lúc người Ấn-độ, cũng như nhiều dân-tộc khác, đang tranh đấu dành độc-lập. Bản dịch Pháp văn đã được người Việt ở Pháp đọc. Cũng vào thời đó có một số trí-thức Việt-nam đưa ra ý-kiến tương-tự, cho rằng các giáo sĩ Âu-châu sang Việt-nam đã dọn đường cho quân-đội viễn-chinh Pháp, và nếu họ đã dùng mẫu-tự La-tinh để viết tiếng Việt, thì là vì có thâm-ý làm cho người Việt-nam mất gốc ... chữ Hán, để dễ bề truyền giáo.

Ngày nay, sau một nửa thế-kỷ, những lập-luận như thế đã được xét lại, căn-cứ vào những sử-liệu mà trước đây không mấy ai chịu khó tìm đọc. Cho nên không còn có thể quan-niệm một cách quá đơn-sơ như trước.

Riêng về quan-niệm của Panikkar, thiết-tưởng có hai chỗ giải-thích thiếu nguyên-tắc :

Thứ nhất là, vô-tình hay hữu-ý, ông đã lẫn-lộn thái-độ của người theo Hồi-giáo trên đất Ấn-độ của ông, với thái-độ của người Tây-phương đứng trước châu Á nói chung. Vì lẽ rằng : một đàng thì người theo Hồi-giáo không phân-biệt chính-trị với tôn-giáo, cho nên khi xâm-chiếm được nước nào thì thường dùng các phương-tiện thế-tục để làm cho dân nước đó phải theo tôn-giáo và văn-minh Hồi-giáo. Chính vì thế mà sau nhiều thế-kỷ đô-hộ đã có tới mấy trăm triệu người Ấn-độ bỏ Ấn-giáo và truyền-thống văn-hóa Ấn-độ, mà theo Hồi-giáo và văn-hóa Hồi-giáo . Cũng vì thế mà khi Ấn-độ dành được độc-lập, thì đã có nội-chiến vì lý-do tôn-giáo, hàng chục triệu người bị cưỡng-bách di-cư hay là bị sát hại, để rồi thành-lập ra hai quốc-gia thù-địch nhau từ hơn nửa thế-kỷ, là Ấn-độ và Pakistan (và Bangladesh). Đó là vết thương sâu đậm trong lòng dân-tộc, mà những người ái-quốc như ông Panikkar không sao quên được. Từ đó ông quan-niệm rằng người Tây-phương cũng như thế cả. Nhưng thế là lầm. Vì, đàng khác thì đạo Thiên-Chúa ở Âu-châu đã đặt ra nguyên-tắc biệt-lập tôn-giáo với chính-trị. Cho nên nếu vua chúa lấy tiền nhà nước, đem quân-đội đi xâm chiếm các thuộc-địa, thì các thương-gia đi buôn bán bằng vốn riêng của mình, và các giáo-sĩ đi truyền đạo thì lấy tiền đóng góp của giáo-dân mà tiêu-dùng . Dĩ nhiên là trong thực-tế thì các giáo-sĩ phải đi nhờ các thương-thuyền hay thỉnh-thoảng nhờ tầu của quân-đội chở đi, cho nên có thể có đôi chút liên quan với nhau, nhưng ba hạng người đó có mục-đích khác nhau và hoạt-động theo nguyên-tắc riêng của mình.

Thứ hai là ông không phân-biệt cho rõ thái-độ của các giáo-sĩ Tây-phương trong những thế-kỷ trước và sau khi các cường-quốc Âu-châu sang Á-châu mở thuộc-địa. Vì lẽ rằng người đi mở thuộc-địa thường có thái-độ trịch-thượng đối với dân bản-xứ, còn người đi giảng đạo để chia sẻ niềm tin thì thường có thiện-cảm với họ   Hơn nữa, cho dù thái-độ trước sau đôi khi có khác nhau, nhưng không thể gán cho họ cái ác-ý là tiêu-diệt văn-hóa người bản-xứ.  Sự thực có lẽ tế-nhị hơn. Trong cuốn sách mới xuất-bản gần đây về Chiến-lược truyền giáo của giáo-sĩ người Pháp dòng Tên ở đất Pháp Mới và ở Trung-quốc vào thế-kỷ XVII , nhà nghiên-cứu Shenwen Li (Lý Thạnh Văn) đã nêu ra hai thái-độ của nhà truyền-giáo đối với văn-hóa người bản-xứ. Đối với những dân-tộc bán-khai không có chữ viết, như ở Bắc-Mỹ, thì trong khi giảng đạo, họ giúp vào việc khai-hóa, dậy cho biết cách viết chữ và một ít kỹ thuật. Còn đối với những dân-tộc đã có nền văn-minh khá cao, thì họ ra công học cho biết ngôn-tự, biết văn-hóa, để trình-bầy niềm tin của họ cho dễ hiểu. Chúng ta biết là vào thế-kỷ XVIII, các giáo-sĩ đã cho người Tây-phương biết khá nhiều về văn-hóa Trung-quốc, cho đến nỗi có những nhà văn, như Voltaire, tuy chưa bao giờ sang Á-châu, cũng hào-hứng đem người Tàu ra làm mẫu mực về tư-tưởng duy-lý.  Ở Việt-nam cũng thế.

 

2- Các giáo sĩ Tây-phương và văn hóa Việt-nam 

Vào đầu thế-kỷ XVII, các giáo-sĩ Tây-phương đến Đàng Trong và Đàng Ngoài giảng đạo, đã nhận thấy rằng Việt-nam là một dân-tộc có văn-hiến, có pháp-luật, có tổ-chưc hành-chính. Cho nên họ học tiếng Việt và tìm hiểu phong-tục người nước ta. Ngay từ thời đó họ đã biết rằng người Việt, tuy còn dùng chữ Hán rất nhiều, nhưng đã lập ra chữ viết riêng, tức là chữ nôm. Vào đầu thế-kỷ, giáo-sĩ người Ý, Girolamo Maiorica, đã soạn bằng chữ nôm chừng bốn mươi cuốn sách đạo (nay chỉ còn độ một phần tư). Trong khi đó thì sách vở của tam giáo, Nho, Đạo, Thích, đều là chữ Hán cả, chứ không dịch ra tiếng ta. Vào khoảng giữa thế-kỷ thì giáo-sĩ Alexandre de Rhodes đã biên-soạn được tự-vị Việt-Bồ-La, ngữ-pháp tiếng Việt và sách Phép giảng tám ngày bằng tiếng La-tinh có chữ quốc-ngữ đối-chiếu (1651). Có mấy vị khác, như Borri, Marini, Tissanier, đã viết sách lịch-sử và phong-tục Việt-nam cho người Âu-châu đọc. Những công-trình như thế còn tiếp-tục cho đến thế-kỷ XX, với những học-giả như giáo-sĩ Léopold Cadière.

Có một điều chứng tỏ rằng các giáo-sĩ ngoại-quốc đã để ý đến vốn liếng văn-hóa nước ta đó là việc soạn tự-vị. Thực thế, trong khi người Tàu đã ra công soạn ra tự-vi Khang-hi, thì ở Việt-nam, từ nhà vua cho đến các bậc sĩ-phu, chưa thấy ai làm tự-vị Việt-nam cả. Ấy thế mà cuối thế-kỷ XVIII, giám-mục Pierre Pigneaux de Béhaine (Bá Đa Lộc) đã cùng với một số tu-sĩ người Việt biên-soạn ra tự-vị Việt-nam (cả chữ nôm lẫn chữ quốc-ngữ) và La-tinh .  Coi tiếng Việt, chữ Việt là quan trọng, là quốc-hồn, quốc-túy, như thế kể cũng là khá táo-bạo, nhất là trong khi sĩ-phu của ta coi thường nó (nôm na là cha mách qué), không dùng nó để viết những điều quan-trọng.

Còn về sách đạo, như sách giáo-lý, sách kinh, v.v. thì các giáo-sĩ, tuy đã có đem vào Việt-nam mấy cuốn sách bằng chữ Hán, nhưng vẫn soạn và in bằng chữ quốc-ngữ, và bằng chữ nôm cho đến đầu thế-kỷ XX. Vì thế cho nên ngườì theo đạo Thiên-Chúa không đến nỗi mất gốc, như đã có người hiểu ngầm hay là hiểu lầm như thế. Còn về phong tục thì chỉ bỏ đi một số ít, vì cho rằng đó là mê-tín. Như thế cũng là truyện thường, vì có nhiều phong-tục trong dân-gian cũng bị nhà Nho và triều-đình coi là mê-tín. Cho nên người theo đạo Thiên-Chúa đại khái vẫn giữ thuần phong mỹ-tục như người đồng bào bên lương.

Trở lại dự-định tìm hiểu phong-tục Việt-nam, ta phải kể đến cuốn sách Tam giáo chư vọng. Điều đáng chú-ý là sách này được biên soạn và viết tay bằng chữ quốc-ngữ, chứ không phải là bằng chữ Hán hay là bằng một ngôn-ngữ Âu-châu.

 

3- Hoàn-cảnh biên-soạn sách Tam giáo chư vọng

Trong những thế-kỷ XVII và XVIII, số người biết chữ ở nước ta còn rất ít, số người theo đạo Thiên-Chúa cũng chưa đông lắm, cho nên sách đạo cũng không nhiều, thường chỉ có giáo-sĩ Tây-phương, thầy cả (linh-mục) và thầy giảng bản-xứ là có thể dùng được. Mãi tới đầu thế-kỷ XIX các giáo sĩ người Pháp mới lập nhà in, để in và phổ-biến rộng-rãi những sách đạo soạn bằng chữ nôm và chữ quốc-ngữ. Cho nên trước đó các sách thường là chép tay mà thôi. Như thế số sách lưu-dụng rất có hạn, lại chỉ để lưu-hành nội-bộ, người ngoài ít khi biết đến.

Có điều đáng chú-ý là đây có lẽ là lần đầu tiên, người Việt được học giáo-lý của một tôn-giáo theo thứ-tự mạch-lạc, có biết đủ những điều cốt-yếu mới được nhập đạo. Có lẽ vì thiếu chương-trình giảng-giải đạo-pháp như thế, cho nên không có tiêu-chuẩn rõ-rệt để biết người Việt-nam ai theo đạo nào và hiểu biết ít hay nhiều về đạo của mình. Ngày nay, ngoài đạo Thiên-Chúa ra, thì tuy không nói là theo tiêu-chuẩn nào, nhưng người ta vẫn cứ nói là có bao nhiêu phần trăm theo đạo nọ đạo kia. Đạo Thiên-Chúa ý-thức được cá-tính của mình, cho nên ngay từ buổi đầu đã có tiêu-chuẩn rõ và đã tóm tắt niềm tin của mình trong kinh Credo, gọi là kinh Tin-kính. Sau này, vào thế-kỷ XVI bản tóm ấy đã được bàn rộng ra và người ta ghi thêm vào đó những việc phải làm về luân-lý, về lễ bái, và những kinh-nguyện phải đọc, tất cả được in ra thành sách giáo-lý, gọi là Sách bổn. Xem sách bổn thì biết người theo đạo Thiên-Chúa tin-tưởng vào ai, sống như thế nào. Người ta học thuộc lòng sách giáo-lý và các kinh-nguyện để đọc chung với nhau. Thêm vào đó, còn được nghe hay đọc truyện các thánh, lấy đó làm mẫu-mực để sống sao cho phải đạo, phải phép. Đấy là tình-trạng ở Âu-châu. Nhưng từ đầu thế-kỷ XVII, thì ở Việt-nam các giáo-sĩ Âu-châu cũng trình-bầy đạo Thiên-Chúa theo như kiểu đó.

Vào khoảng giữa thế-kỷ XVIII, ta thấy xuất-hiện ở Việt-nam một loại sách mới, như sách Tam giáo chư vọng, viết theo một loại văn mới, Tôi xin gọi tạm là loại văn ‘’bút-chiến’’. Gọi là văn ‘’bút-chiến’’, là vì nếu bây giờ cho in và phổ-biến ra, thì chắc sẽ không thiếu người vội cho rằng đạo Thiên-Chúa cố-ý gây xích-mích với các đạo khác. Vì ngày nay người ta quen viết sách viết báo, viết văn bút-chiến để đả kích, phê-bình, nói xấu, vu oan cho người khác, để khích động quần-chúng, v.v.. Nhưng thực ra loại văn ‘’bút-chiến’’ mà tôi nhắc tới trên đây không có mục-đích bút-chiến như ngày nay. Nó chỉ để lưu-hành nội-bộ, nhằm mục-đích giúp cho người mới theo đạo được bền chí giữ đạo trong tình-trạng khó-khăn của thiểu-số, hiểu rõ giáo-lý, biết nó khác đạo mình theo khi trước như thế nào và biết cách trả lời khi người ta hỏi đến mình. Chứ ai có thể tưởng-tượng một thiểu-số không đáng kể trong nước, đang bị nghi-ngờ, thỉnh-thoảng lại còn bị bắt-bớ, cấm-cách, thế mà lại dám lên tiếng phi-bác, thách-thức người chung quanh, nhất là vua quan đang có sẵn quyền-lực trong tay ?

Nhưng ai cấm thiểu-số đó nghĩ rằng mình có chính-đạo ? Vì họ có nghĩ như thế và tìm cách minh-chứng như thế, thì cũng là lẽ thường. Thực vậy, ai cũng biết rằng nhà Phật cho rằng  ai không biết và không theo Phật-pháp thì tức là còn trong tình-trạng vô-minh,vô-minh thì sinh ra hành, thức, v.v. cho đến sinh, lão, tử, nghĩa là chưa giải-thoát ra ngoài vòng luân-hồi. Ai chẳng biết rằng có nhiều nhà Nho trong thời Hậu-Lê cho rằng mình có chính-đạo, còn Phật-giáo, Đạo-giáo, cũng như đồng bóng đều là tả-đạo cả. Rồi sau này đạo Thiên-Chúa cũng được liệt vào sổ tả-đạo như thế. Ngay bây giờ cũng có một số người ở khắp đó đây, đang lý-luận dậy nhau rằng không có Thiên-Chúa, không có Thiên-Chúa tạo thiên lập địa, nhưng có sao đâu, vì đó là niềm tin, là lập-trường của họ.  Cho rằng mình có chính-đạo thì không có gì đáng trách, vì như thế là có lập-trường. Chứ có ai biết mình đi lầm đường mà lại vẫn cứ đi ? Chứ nếu cái gì cũng cho là phải cả, thì đó là ‘’ông ba phải’’, không có lập-trường gì cả. Có đáng trách chăng, thì là vì người ta dùng quyền-lực để cưỡng-bách, dùng danh-lợi để quyến-rũ người khác theo lập-trường của mình.

Vì sao lại có loại văn ‘’bút-chiến’’ vào thời đó ? Thiết-tưởng vào thời đó, đạo Thiên-Chúa sau 150 năm đã bắt đầu ăn rễ vào Việt-nam, đã có một số linh-mục và thầy giảng bản-xứ làm cốt-cán cho xứ đạo. Những người theo đạo hằng ngày vẫn tiếp-xúc với người ngoại đạo, cho nên không thể không so-sánh, không đặt vấn-đề đâu là chính-đạo, nhất là khi sĩ-phu và hàng quan-lại không theo đạo, và đôi khi còn tỏ ra khinh miệt cái thứ đạo ngoại-lai mà họ cho rằng chỉ có ‘’ngu phu ngu phụ’’ mới theo. Cho nên có thể nói là những sách như thế có mục-đích trực-tiếp là để giúp người theo đạo giải-quyết những mối thắc-mắc riêng của mình, và gián-tiếp là để giải-thích cho người khác hiểu lập-trường của mình.

 

4- Tiền-thân của sách Tam giáo chư vọng 

Sách Tam giáo chư vọng không có đề là soạn vào năm nào, nhưng ở trang 29 có viết : ‘’năm này là nhâm-thân Cảnh-hưng thập tam niên’’. Như thế có nghĩa là đoạn thứ 5 trong quyển thứ nhất được viết vào năm 1752. Trước đó hai năm thì có một cuốn sách khác, viết bằng tiếng La-tinh, chữ rất đẹp, nhan đề là Opusculum de sectis apud Sinenses et Tunkinenses, nghĩa là : Tiểu-luận-văn về các tôn-giáo của người Tàu và của người Đàng Ngoài. Trong lời Tựa, tác-giả xưng mình là thầy Adrianus à Sancta Thecla, thuộc dòng tu không đi giầy, theo luật thánh Augustino, và được sai đi giảng đạo ở Đàng Ngoài, và nói sách đã được hoàn-tất vào tháng chín năm 1750 tức là năm Canh-ngọ (tác-giả viết lầm là Canh-ngũ), niên-hiệu Cảnh-hưng năm thứ mười một . Adriano là linh-mục người Ý phục-vụ cho địa phận Đông Đàng Ngoài. 

Sách Tiểu-luận-văn (TLV) này là một luận-văn, chứ không dàn cảnh theo lối đối-thoại giữa đông-sĩ và tây-sĩ như trong sách Tam giáo chư vọng, nhưng xét về nội-dung thì tôi cho nó là tiền-thân của Tam giáo chư vọng (TGCV), vì mấy lý-do sau đây. Thứ nhất là cách chia phần đoạn như nhau, theo thứ-tự : Nho-giáo, Đạo-giáo, rồi Phật-giáo. Thứ hai là TGCV viết đầy đủ và nhiều chi-tiết hơn TLV. Thứ ba là những đoạn văn trưng-dẫn từ sách chữ Hán hầu hết giống nhau, lại được trưng-dẫn theo cách đọc Hán-Việt như nhau. Xét về hình-thức ‘’bút-chiến’’, thì tôi thấy có một tập sách khác có thể là tiền-thân của nó. Tập sách này nhan-đề là Khuyết-võng mục-lục, nghĩa là mục-lục những điều sai-sót, viết tay bằng chữ Nho, tất cả chỉ có 26 tờ. Không có tên người viết, cũng không đề là năm nào, nhưng tôi đoán là nó có trước hai cuốn sách kia, vì nó không đầy đủ, lại các đề-tài cũng không được phân-loại cho có thứ-tự như hai cuốn kia , và vì các đề tài của nó cũng lại xuất-hiện trong hai cuốn sách đó, lại vì nó cùng ở trong lô sách mà Hội Thừa-sai Nước Ngoài đã đem từ Việt-nam về trụ-sở Paris của họ (nhưng lại để ở Thư-viện Á-châu, cũng của Hội, chứ không để ở Văn-khố, như hai cuốn kia).

 

5- Tác-giả của Tam giáo chư vọng 

Về tác-giả của TGCV, thi không thấy đề tên rõ-ràng. Nhưng trong bài Tựa, tác giả tự giới-thiệu như sau : ‘’Ta là người ở phương thái-tây trong nước Italia đã sang bên phương đông này giảng-giải đạo thánh Đức Chúa Trời cho kẻ ở nước Annam này kẻ hèn kẻ sang kẻ thông kẻ dốt kẻ già kẻ trẻ, được biết chính Chúa phải thờ cùng chính đạo phải giữ mà ngày sau được phúc ở trên thiên-đàng đời đời chẳng cùng’’ (trang I).

Chúng ta biết là từ khi chia xứ Đàng Ngoài làm hai khu-vực truyền-giáo (năm 1673), lấy sông Hồng-hà làm ranh giới, thì các giáo-sĩ người Pháp làm việc ở địa-phận Tây Đàng Ngoài, còn các giáo-sĩ các nước khác thì làm việc ở địa-phận Đông Đàng Ngoài dưới quyền của dòng tu Đa-minh (dominicains). Vào năm 1752 thì ở địa-phận Đông Đàng Ngoài có tất cả là 23 linh-mục : 15 người Việt và 8 người Âu-châu, trong số đó có 5 người Ý đều đi tu theo luật dòng thánh Augustino cả. Linh-mục Adriano thì đã viết TLV bằng tiếng La-tinh. Còn ba vị khác thì không thấy có gì đặc-sắc, cho nên ta có lý mà đoán rằng sách TGCV nếu không phải là do Adriano viết  thì là do giám-mục Hilario de Jesus căn-cứ theo TLV của Adriano mà viết ra tiếng Việt. Vị này tới Đàng Ngoài vào năm 1724, có tiếng là rất thạo tiếng Việt và đã viết nhiều sách đạo bằng tiếng Việt. Năm 1736 Hilario được cử làm giám-mục hiệu tòa Coricée (hay là Core) .

Thời-gian làm việc ở Việt-nam của giám-mục Hilario là một thời-kỳ khó-khăn : bên ngoài thì có giặc-giã cướp-bóc, giáo-dân và giáo-sĩ thường bị rầy-rà, bên trong thì việc tổ-chức lại khu-vực truyền-giáo, như vừa nói trên đây, cũng chưa ổn-định. Thực thế, Trước đó nhân dịp các vua Bồ-đào-nha và Y-pha-nho đi mở thuộc-địa thì giáo-tông-tòa ở Roma giao-phó cho họ nhiệm vụ truyền-bá đức tin, để cho việc mở thuộc-địa bớt tính cách vụ-lợi vật-chất. Nhưng chẳng bao lâu sau, nhận thấy rằng mình lầm, vì các vua đó chỉ nghĩ đến cái lợi riêng, cho nên tự-tiện lập hàng giáo-phẩm và đồng-hóa người bản-xứ ; vì thế những thuộc-địa cũ của hai nước đó ở Nam-Mỹ ngày nay đều nói tiếng Bồ-đào-nha hay tiếng Y-pha-nho. Có hai lý-do làm cho giáo-tông-tòa Roma muốn thôi không cho hai nước đó đỡ đầu cho việc truyền-giáo nữa. Một là vì khi giảng đạo tới những nước có văn-hiến ở Á-châu, thì không thể đồng-hóa được, mà phải hội-nhập văn-hóa. Hai là muốn tổ-chức lại việc truyền-giáo, lấy lại quyền lựa chọn và sai-phái các giáo-sĩ. Nhưng bỏ hai nước đó ra, thì phải kêu gọi đến giáo-sĩ của những nước nào không có quyền-lợi chính-trị hay kinh-tế gì ở Á-châu, chẳng hạn như nước Pháp. Vì thế sau nhiều năm vận-động của Alexandre de Rhodes, giáo-tông-tòa đã cử hai giáo-sĩ Pháp, là Pallu và Lambert de La Motte làm đại-diện để lo việc truyền-giáo ở Á-châu, với những chỉ-thị mới : phải tìm cách lập hàng giáo-phẩm bản-xứ, phải hội-nhập văn-hóa chứ không được bắt người bản-xứ đồng-hóa. Do đó Hội Thừa-sai Nước Ngoài tại Paris được thành-lập năm 1660. Các giáo-sĩ của Hội, thường là người Pháp với nhau, làm việc ở Tây Đàng Ngoài, thì không có gì lôi-thôi khó-khăn. Nhưng ở Đông Đàng Ngoài, vẫn còn một số giáo-sĩ dòng Tên (Jésuites) trước đã được phái sang từ Lisboa (Lisbonne, Bồ-đào-nha), vẫn không chịu chấp-nhận làm việc theo điều-kiện mới, cho nên gây ra nhiều điều khó-khăn trong nôi-bộ địa-phận Đông Đàng Ngoài. Cũng phải chờ cho đến khi  dòng Tên phải đóng cửa ở Âu-châu năm 1773, và không được trở lại Việt-nam nữa, thì tình-thế mới ổn-định. Chuyến tây-du sang Lisboa vào cuối thế-kỷ XVIII của linh-mục Philiphê Bỉnh, nhờ tiền đóng góp của giáo-dân cũ của các giáo-sĩ dòng Tên, mang theo hi-vọng xin cho dòng Tên được trở lại Việt-nam nhưng không thành-công, đó là màn cuối cùng của tấn bi-kịch gây ra do sự thay-đổi đường-lối truyền-giáo. 

Nhắc qua mấy trang sử đó cũng đủ thấy rằng những năm làm giám-mục ở địa-phận Đông Đàng Ngoài của giáo-sĩ Hilario cũng có nhiều điều phải hết sức bận tâm. Đến năm 1754 thì ngài mất, thọ 57 tuổi .

 

6- Nội-dung sách Tam giáo chư vọng 

Nội-dung cuốn sách được trình bầy như là một cuộc đối-thoại giữa một ông tây-sĩ (tác-giả) và một ông đông-sĩ. Tây-sĩ rất có thiện-cảm với đông-sĩ và hai người lấy lý-sự mà nói truyện vớí nhau về tam giáo. Đây xin trích dẫn mấy câu trong lời Tựa :

Ta bây giờ gặp Đông-sĩ hay chữ nghĩa và có nhân đức thì mừng lắm bởi vì được dịp tốt mà biết cho tỏ mọi sự thuộc về tam giáo lại luận cùng Đông-sĩ chính lẽ về ba đạo ấy. Kẻ hay chữ nghĩa chẳng những là phải học sách mà lại phải xét lẽ trong sách học cho thông. Có nhiều khi sách khéo nói dạy đều trái cho nên kẻ học sách phải xét lẽ trong ấy có phải sự thật sự chăng, như lời trong sách Đại Học rằng : học giả bất khả dĩ bất khả dã, kẻ học mà chẳng biết lẽ thật lẽ trái thì chẳng nên gọi là kẻ thông hay chữ nghĩa, kẻ học mà biết lẽ thật lẽ dối thì mới nên gọi là kẻ thông hay chữ nghĩa, như lời Đại Học rằng : Vật cách nhi hậu tri chí. Vì vậy tây-sĩ xin Đông-sĩ vấn đáp nhau mà xét luận các lẽ ba đạo ấy cho thông biết mọi sự vọng là sự phi lý ba đạo ấy cùng sẽ chia làm ba quyển. trong quyển thứ nhất sẽ luận về sự vọng đạo nho ; trong quyển thứ 2 sẽ luận sự vọng đạo đạo ; trong quyển thứ 3 sẽ luận sự vọng đạo Thích.

Về cách thức đề cập các vấn-đề, thiết-tưởng nên có vài nhận-xét :

Thứ nhất : về thứ-tự các đề-tài thì tác-giả theo như trật-tự các tôn-giáo, đứng trong quan-điểm nhà Nho thời ấy : dĩ Nho vi tiên, Đạo vi thứ, Thích vi hậu.

Thứ hai : không cần phải nói thì ai cũng rõ rằng người viết sách, đặt vấn-đề, và hướng dẫn cuộc thảo luận, là giáo-sĩ đạo Thiên-Chúa, cho nên dĩ nhiên là phần thắng lợi phải dễ-dàng về tay tác-giả.

Thứ ba : bàn-luận theo lối đối-thoại có lẽ là một con đường mới đối với người Á-châu, xưa nay thường tôn kính bậc thầy mà không dám có tư-tưởng riêng. Trái lại, theo như tôi nghĩ, thì triết-học Âu-châu đã bắt đầu bên Hi-lạp, khi mà , thay vì chấp nhận tất cả những gì tiên- sinh viết, thì Platon viết ra những bài đối thoại, trong đó thầy cũng như trò, đều lấy lý-sự mà bàn luận với nhau. Người ta có thuyết phục được nhau, trong khi bàn việc nước hay là khi triết lý vơí nhau, thì không phải là vì mạnh thế, vì có địa vị hay là uy-tín , nhưng là vì có lý-sự. Vì thế, mặc dầu tính-cách ‘’bút-chìến’’, lý-luận trong sách không phải là không có chỗ lý-sự, đáng suy-nghĩ, nhất là vì nhiều khi tác-giả lấy lại lập-luận của nhà Nho đối với các tôn-giáo khác.

Trong bài giới-thiệu này, tôi không thể đi vào chi-tiết nội-dung cuốn sách, nên chỉ xin trình bầy mục-lục như sau :

Phần thứ nhất : Nho-giáo chư vọng  gồm 15 đoạn, luận về những đề-tài này : Thái-cực sinh trời đất, Bàn Cổ bởi ai mà ra ? Thượng-đế là đấng nào ? Chính-đạo bởi ai mà ra ? Hồng-thủy, Tế thiên địa lục tông, Tế ngũ đế ngũ thần, Lễ hội miêng cùng lễ tế cờ đạo, Thành-hoàng cùng thượng trung hạ đẳng thần, Vua Dóng vua Trèm vua Bạch-mã, Táo-quân Thổ-công Thổ-chủ Tiên-sư, Tế ông Khổng cùng các đại-hiền, Tế ông Thái-công cùng các đại-tướng, Lễ tế táng ông bà cha mẹ, Luận sự địa-lý.

Phần thứ hai : Đạo-giáo chư vọng  gồm 12 đoạn, luận về những điều sau đây : Lão-tử lập ra đạo Đạo, Đạo Đạo bởi Trương Nghi Trương Giác mà ra, Việc thày phù-thủy làm chữa người ta, Mười hai thần hành-khiển, Cửu tinh cùng Thiên-lôi, Ngày giờ tốt xấu, Hà-bá Thủy-quan Phạm Nhan Liễu Hạnh, Luận sự bói, Xem số cùng xem khoa, Ngũ tinh, Xem tướng cùng xem giò, Nhật-thực nguyệt-thực.

Phần thứ ba : Thích-giáo chư vọng  gồm 12 đoạn, luận về những điều sau đây : Phật-giáo bởi ai mà ra ? Phật-giáo nhập vào Trung-quốc, Luận lòng nhà Nho về Phật-giáo, Luận cửu kiếp Phật-giáo truyền lại, Chính nghĩa cửu kiếp, Luận nghĩa chữ không cùng chữ Phật,  Về cấm sát sinh cùng luân-hồi, Luận kinh bảo-đàng, Lễ đốt nhà táng cùng vàng mã, Địa ngục, Bụt Quan-âm cùng cô-hồn, Luận ngày tết lên nêu ba vôi bột.

    

Kết-luận tạm thời 

Trên đây tôi đã cố ý tương-đối-hóa cái hình-thức ‘’bút-chiến’’ của TGCV. Nếu ta gác cái mục-đích và dụng-ý chủ-quan của tác-giả ra một bên thì, xét khách-quan, TGCV là một tài-liệu, rất có thể là tài-liệu đầu tiên, lại khá đầy-đủ về tôn giáo Việt-nam, cho nên đáng được xét đến trong khi nghiên-cứu về tôn-giáo cổ-truyền Việt-nam.

Về nội-dung thì có hai loại. Loại thứ nhất là do sách Nho mà người theo đạo Thiên-Chúa, giáo-dân cũng như giáo-sĩ, đã đọc được. Có điều là vào thời đó, khi trưng-dẫn, người ta không quen nêu rõ xuất-xứ, cho nên ta không biết là lấy ra từ sách nào, từ phần nào, từ đoạn nào. Tuy nhiên ta có thể kiểm soát được , và đó là một trong những công-việc phải làm nếu ta định in sách đó ra. Loại thứ hai là những điều quan-sát được trong đời sống tôn-giáo dân ta thời đó, lại cũng có nhiều người giáo-dân trước đã theo như thế. Đó là những điều mà các giáo-sĩ Tây-phương đã để tâm ghi chép từ hơn thế-kỷ. Trong bài Tựa của TGCV, Adriano có kể lại rằng ông đã đưa sách này vào nhà tù, để giáo-sĩ Francisco Gil de Federich duyệt lại và sửa những điều không đúng (vị này bị  hành-quyết năm 1745). Có lẽ không thể lấy sách lý-thuyết hay sách lễ-nghi bây giờ để phi-bác những sự kiện đã quan sát, nhưng có thể lấy để so-sánh và để nhận-định ra những cái đã thay đổi từ mấy thế-kỷ nay.

Về cách kết-cấu thì TGCV trình-bầy một cái nhìn tổng-quát, vá các sự-kiện khá nhiều đó đã được phân-loại theo tam giáo cho nó có thứ-tự. Thiết-tưởng ngày nay các nhà nghiên-cứu văn-hóa dân-gian có thể phân-loại khác đi. Vì có những yếu-tố chưa chắc đã hẳn là của Nho-giáo, Đạo-giáo hay Phật-giáo, mà là thuộc về tôn giáo dân gian đã có trước tam giao. Dù sao cũng khó phân-loại, vì thời xưa người ta thi-hành tất cả các lễ-nghi, bất kể từ đâu lại. Vào thế-kỷ XIX, có nhiều sách đạo viết bằng chữ nôn và chữ quốc-ngữ, cũng lấy lại nhiều yếu-tố trong TGCV, nhưng không lấy lại cách phân-loại quá cứng-nhắc như thế nữa.

Vấn-đề có thể làm sau này : một là so sánh TGCV với TLV của Adriano, hai là chờ khi bản tiếng Ý đã nhắc tới trên đây được in ra, thì ta so-sánh thêm đẻ xác định  về tác-giả     

Tác giả:  Gs. Trần Văn Toàn

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!